Được thiên nhiên ưu đãi với nhiều sản phẩm du lịch độc đáo và hấp dẫn, trong đó hình ảnh nhãn cổ đã trở nên thân thuộc, gần gũi từ bao đời của người dân Bạc Liêu. Với mong muốn gìn giữ và đưa nhãn cổ trở thành loại hình du lịch sinh thái độc đáo, ngành Du lịch tỉnh đã triển khai thực hiện Đề án “Bảo tồn nhãn cổ gắn với phát triển du lịch”. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện, đề án đã lộ rõ nhiều bất cập, gây hoang mang và lo lắng cho người dân. Trước thực tế đó, đòi hỏi ngành chức năng cần xem xét và có hướng chỉ đạo hợp lý để đề án có thể phát huy hiệu quả như mong muốn.
Bài 1: Băn khoăn đề án bảo tồn nhãn cổ Bạc Liêu
Mặc dù đã được triển khai thực hiện hơn nửa lộ trình, thế nhưng Đề án “Bảo tồn nhãn cổ gắn với phát triển du lịch” (gọi tắt là Đề án) đến nay vẫn dậm chân tại chỗ. Đó là chưa kể đến những thiếu sót, chưa đủ sức thuyết phục… của Đề án. Chính vì vậy đã nhận được nhiều ý kiến trái chiều từ phía người dân địa phương.
NHIỀU BẤT CẬP
Ban chỉ đạo đề án cho biết, qua điều tra trên địa bàn tỉnh hiện còn 1.080 cây nhãn cổ của 50 hộ dân thuộc 2 xã Hiệp Thành và Vĩnh Trạch Đông (TP. Bạc Liêu). Phương thức bảo tồn mà Đề án đang thực hiện là cử cán bộ lập danh sách hỗ trợ tiền đến các hộ dân có nhãn cổ với mức 560.000 đồng/cây. Đồng thời, phải áp dụng các biện pháp về quản lý, hướng dẫn kỹ thuật bảo vệ cây, trẻ hóa một bộ phận nhãn cổ làm mô hình mẫu. Tuy nhiên, sau 2 năm thực hiện, Đề án đã bộc lộ nhiều hạn chế. Điều này khiến những hộ dân có nhãn cổ, các nhà quản lý, nhà khoa học và dư luận chưa đồng thuận và họ cần có một giải pháp hữu hiệu hơn.
Thực tế cho thấy, công tác quản lý còn rất lỏng lẻo. Trước hết là ở khâu cấp tiền, nhiều hộ vẫn chưa nhận được tiền hỗ trợ từ Đề án. Đơn cử là trường hợp bà Kim Thị Luối (ấp Biển Tây A, xã Vĩnh Trạch Đông) có 49 gốc nhãn cổ nhưng bà chưa nhận 29 triệu đồng tiền bảo tồn. Bên cạnh đó, nhiều hộ còn chặt bỏ cây làm nhà, làm quán dù đã nhận xong tiền. Đáng nói hơn là ở khâu chiết ghép, thực hiện khá sơ sài đã làm “phá sản” mô hình mẫu trẻ hóa nhãn cổ. Ông Huỳnh Văn Lến (ấp Giồng Nhãn, xã Hiệp Thành) cho biết: “Gia đình tôi có 56 cây nhãn cổ, nhận số tiền hỗ trợ 33 triệu đồng để tham gia bảo tồn bằng phương pháp cưa cây, ghép cành để trẻ hóa vườn nhãn. Nhưng sau thời gian ngắn thực hiện, một số cây nhãn bị cưa quá thấp đã làm chết cây; nhiều cây ghép sống nhưng tán ghép thiếu thẩm mỹ, khó khai thác du lịch”.
Khâu tổ chức, kiểm tra cũng bộc lộ sơ suất, không theo sát mọi hoạt động của Đề án. Vì vậy đã xảy ra những tình trạng đáng tiếc, làm tổn hại và giảm thiểu đáng kể số lượng nhãn cổ, đi ngược với mục đích bảo tồn và phát triển nhãn cổ. Tính đến thời điểm này, có gần 100 cây nhãn cổ đã mất đi, còn người dân thì trông chờ cán bộ kỹ thuật, quản lý như “trời hạn trông mưa” để giúp họ có giải pháp bảo vệ những gốc nhãn cổ đang vơi dần theo thời gian. Qua đó có thể thấy, chủ thể và đối tượng chính của dự án vẫn chưa có sự gắn kết thật sự để làm bật dậy tiềm năng của Đề án.
![]() |
Ông Huỳnh Văn Lến (ấp Giồng Nhãn, xã Hiệp Thành) bên gốc nhãn cổ héo lá sắp chết do áp dụng phương pháp ghép cành. Ảnh: M.H |
Một cán bộ xã Hiệp Thành cho rằng: “Nếu như đề án bảo tồn nhãn cổ được thông qua nhiều hội thảo khoa học, thực tiễn sâu sắc và xác lập các phương án triển khai đồng bộ thì việc thực hiện sẽ gặt hái nhiều tốt đẹp hơn”. Tuy nhiên, có lẽ Đề án này chưa có sự tham gia, đánh giá đúng mức của các nhà khoa học, quản lý và chính người dân trực tiếp tham gia công tác bảo tồn, nên chẳng những không thực hiện tốt việc bảo tồn nhãn cổ gắn với phát triển du lịch, mà ngược lại còn làm giảm sút số lượng nhãn cổ quý giá.
Theo ghi nhận của chúng tôi, hiện tại người dân đang rất băn khoăn về nhiều mặt. Họ mong muốn giữ cho bằng được nhãn cổ, nhưng đây là việc rất khó. Bởi lẽ, theo nhiều người, bản chất nhãn cổ là già cỗi, nên việc trẻ hóa không hề dễ dàng. Mặt khác, sản phẩm từ nhãn cổ có giá thành rẻ, năng suất thấp so với những giống nhãn mới. Ngay cả những hộ có nhãn cổ nằm trong khu bảo tồn đôi khi “bấm bụng” không canh tác đối tượng nông nghiệp khác để tăng thu nhập. Gia đình bà Trương Ngọc Liên (ấp Giồng Nhãn, xã Hiệp Thành) có 20 gốc nhãn cổ trên 100 năm tuổi. Hơn 1 năm nay, do thiếu người chăm sóc lại ít hiểu biết về kỹ thuật, nên hơn một nửa số nhãn cổ trong vườn đã bị sâu bệnh phá hại, bà phải tốn một khoản tiền khá lớn để mua thuốc trừ bệnh cho cây. Bà Liên chia sẻ: “Do đã nhận tiền hỗ trợ và ký cam kết giữ gìn, chăm sóc nên tôi phải giữ lại vườn nhãn cổ, chứ nếu không, có lẽ tôi đã phá bỏ để áp dụng các mô hình trồng trọt khác hiệu quả hơn”.
Cùng cảnh ngộ như bà Liên, nhưng anh Trần Văn Kia (ấp Giồng Nhãn, xã Hiệp Thành) thì lại không nỡ lòng ngồi nhìn những gốc nhãn cổ chết dần, chết mòn nên đã mạnh dạn tìm hiểu kỹ thuật để cấy ghép thành những giống nhãn mới như: xuồng cơm vàng, thanh nhãn… Một mặt để cải thiện năng suất, mặt khác nhằm giữ gìn nhãn cổ của ông cha để lại. Tuy nhiên, “vì chưa nắm vững quy trình và kỹ thuật cấy ghép, nên trong quá trình thực hiện vẫn còn gặp không ít khó khăn. Ngay cả việc chăm sóc và bảo vệ nhãn cổ như thế nào cho hợp lý tôi cũng mập mờ”, anh Kia chia sẻ.
Từ những thực tế trên cho thấy, phải chăng đề án chưa đủ sức thuyết phục để người dân tự nguyện, tự giác thực hiện, mà đa số chỉ ngầm hiểu việc bảo vệ nhãn cổ là theo quy định của Nhà nước, chứ không hề biết được giá trị và tiềm năng mà nhãn cổ mang lại trong tiến trình phát triển du lịch của địa phương?!
HUỲNH HIẾU
Bài cuối: Giải pháp phát huy tiềm năng nhãn cổ