Giáo dục văn hóa, lịch sử địa phương trong giai đoạn hiện nay là việc làm cấp thiết, ý nghĩa để thế hệ trẻ tỉnh nhà có những kiến thức cơ bản về văn hóa, lịch sử quê mình. Từ đó hình thành nơi các em tình yêu quê hương, tự hào về truyền thống cách mạng của cha anh đi trước. Và tuyên truyền trực quan thông qua hiện vật, tranh ảnh, tư liệu, hay các chuyến về nguồn tại các di tích lịch sử, văn hóa… đang phát huy hiệu quả tích cực.
![]() |
Học sinh Trường THCS Võ Thị Sáu (TP. Bạc Liêu) thắp hương tại Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ. Ảnh: C.K |
Dưới góc độ tiếp cận “nhập môn” lịch sử địa phương, học sinh - sinh viên có nhiều “kênh” thông tin để tiếp cận, từ việc giảng dạy của thầy cô đến tham khảo các hình ảnh, tư liệu qua sách báo, tranh ảnh, hiện vật hoặc các câu chuyện lịch sử phát trên các sóng phát thanh, truyền hình. Nhưng để việc tiếp cận đạt hiệu quả cao hơn, thì ngành Giáo dục cần liên kết với Bảo tàng tỉnh - nơi lưu giữ những giá trị chứng cứ lịch sử phản ánh chính xác các giai đoạn lịch sử của dân tộc, địa phương. Qua đó, học sinh - sinh viên sẽ khắc sâu, nhớ lâu hơn nhờ sự kết hợp giữa học tập kiến thức ở trường và tham quan thực tế.
Không chỉ vậy, từ hoạt động này, các học sinh - sinh viên còn có cơ hội nghiên cứu, tìm hiểu các giá trị di sản văn hóa, lịch sử địa phương, qua đó thẩm thấu và yêu thích hơn môn học này. Theo đó, hoạt động bước đầu đã gặt hái những thành công nhất định và nhận được sự đồng thuận cao từ các đơn vị trường học, tầng lớp nhân dân tại các thiết chế do Bảo tàng tỉnh quản lý và khai thác như: Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh ở xã Châu Thới, Khu căn cứ Tỉnh ủy, Khu lưu niệm nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam bộ và nhạc sĩ Cao Văn Lầu, Di tích Bia Khám lớn, Đồng hồ đá Thái Dương, Khu di tích lịch sử Đồng Nọc Nạng…
Tuy nhiên, tính phổ biến của hoạt động này chưa cao, phạm vi triển khai còn hạn chế, chủ yếu tập trung ở một số khu vực trọng điểm. Trước thực trạng này, thiết nghĩ thời gian tới Bảo tàng tỉnh cần phối hợp, thống nhất về nội dung với ngành Giáo dục, các trường học để đa dạng hóa các mô hình giáo dục bộ môn Lịch sử địa phương nhằm khắc phục tình trạng dạy và học “chay” như đã qua. Và để làm tốt công tác này, giáo viên cần tìm hiểu mối liên hệ giữa nội dung bài học với nội dung trưng bày tại các di tích để bố trí học sinh đến tham quan, sau đó viết bài thu hoạch hoặc phát biểu cảm tưởng về di tích đã tham quan. Đồng thời, giáo viên cần có hình thức biểu dương, khen thưởng kịp thời đối với những cá nhân có bài viết tốt trước tập thể lớp. Điều này sẽ giúp các em yêu thích các sự kiện, nhân vật lịch sử, đồng thời giáo viên cũng có những giờ lên lớp hiệu quả, sinh động.
Không chỉ vậy, thời gian tới Bảo tàng tỉnh cần tăng tần suất tổ chức các buổi tọa đàm, giới thiệu, cung cấp các loại tài liệu về các nội dung trưng bày để giáo viên nắm được ý nghĩa, nội dung của tư liệu, hiện vật. Bên cạnh đó, Bảo tàng tỉnh cũng nên phối hợp với các trường học tổ chức trưng bày các chuyên đề về lịch sử dân tộc, địa phương phù hợp với chương trình giảng dạy các cấp để học sinh bắt kịp, dễ tiếp thu những kiến thức của bộ môn được cho là khá “khô khan”. Song song đó, cần tổ chức trưng bày lưu động tại các trường học ở vùng nông thôn, vùng ít có điều kiện tham quan học tập.
Với những “hiến kế” tâm huyết này, mong rằng các đơn vị hữu quan, nhân dân trong tỉnh, nhất là thế hệ trẻ thấy được trách nhiệm của mình để cùng chung tay bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa, lịch sử Bạc Liêu nói riêng, lịch sử dân tộc nói chung trong thời kỳ hội nhập, phát triển.
KIM TRÚC