Thời gian qua, vấn đề chăm lo, trợ giúp người khuyết tật (NKT) được các cấp, các ngành trong tỉnh quan tâm thực hiện bằng nhiều việc làm thiết thực. Bên cạnh đó, công tác truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng đối với NKT cũng được Sở LĐ-TB&XH triển khai rộng rãi, hiệu quả. Trong đó, Công ước quốc tế về quyền NKT (gọi tắt là Công ước) là một nội dung tuyên truyền quan trọng, kêu gọi toàn xã hội chung tay thể hiện trách nhiệm và tạo cơ hội để NKT bình đẳng hưởng các quyền và lợi ích chính đáng.
Bà Lê Thanh Giang, Phó Giám đốc Sở LĐ-TB&XH tặng quà cho NKT xã Vĩnh Phú Đông (huyện Phước Long).
Sở LĐ-TB&XH tuyên truyền chính sách, pháp luật về NKT ở xã Châu Thới (huyện Vĩnh Lợi). Ảnh: H.T
Cùng với các chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước dành cho NKT, Công ước là nội dung được lồng ghép trong các chiến dịch truyền thông của Sở LĐ-TB&XH. Đây là một văn kiện nhân quyền quốc tế do Liên Hiệp Quốc soạn thảo nhằm mục đích bảo vệ nhân phẩm NKT và quyền được thụ hưởng mọi dịch vụ công cộng phù hợp. Công ước có sự tham gia của nhiều nước trên thế giới, trong đó, Việt Nam chính thức là thành viên thứ 118 ký Công ước vào năm 2007.
Một vấn đề vô cùng quan trọng được đề cao trong Công ước là quyền được sống. Các quốc gia thành viên phải thực hiện các hoạt động cần thiết để NKT được hưởng quyền này một cách hiệu quả trên cơ sở bình đẳng với mọi công dân khác trên thế giới. Đồng thời, đảm bảo sự an toàn cho NKT bằng cách nghiêm cấm những hành vi tra tấn, đối xử tàn ác, vô nhân đạo, hạ thấp nhân phẩm, đưa ra làm thí nghiệm y học, khoa học (trừ trường hợp NKT tự nguyện đồng ý). Ký kết Công ước này, các quốc gia sẽ tiến hành mọi biện pháp về lập pháp, hành pháp, xã hội, giáo dục để bảo vệ NKT không bị bất kỳ hình thức bóc lột, bạo hành hoặc lạm dụng nào. Mặt khác, can thiệp để thúc đẩy sự bình phục về tâm lý, ý thức và thể chất, tái hòa nhập cộng đồng cho những NKT là nạn nhân của các hình thức bóc lột, bạo hành hoặc lạm dụng thể chất, tinh thần.
Công ước cũng chỉ rõ một quyền cơ bản của NKT là tự do biểu đạt chính kiến, tiếp nhận và truyền đạt thông tin. Để thực hiện quyền này, các quốc gia phải cung cấp thông tin dưới dạng những hình thức và công nghệ mà NKT có thể tiếp cận được (như ngôn ngữ ký hiệu, chữ nổi Braille...); chấp nhận và tạo điều kiện cho việc giao tiếp tăng cường hoặc thay thế sao cho phù hợp; khuyến khích các cơ quan truyền thông đại chúng, nhà cung cấp thông tin qua Internet làm dịch vụ của họ để NKT dễ tiếp cận.
Đặc biệt, tính nhân văn của Công ước được thể hiện qua sự tôn trọng quyền có gia đình của NKT. Theo đó, NKT ở độ tuổi kết hôn sẽ được kết hôn và xây dựng gia đình trên cơ sở đồng ý tự nguyện hoàn toàn của người dự định trở thành vợ hoặc chồng với mình. Không chỉ vậy, họ còn có thể toàn quyền quyết định một cách có trách nhiệm về số con, tiếp cận thông tin giáo dục về sinh sản và kế hoạch hóa gia đình thích hợp với lứa tuổi.
Sự quan tâm của Công ước đối với NKT còn thể hiện ở quyền được giáo dục. Công ước khuyến khích việc xây dựng hệ thống giáo dục các cấp một cách kịp thời, tạo điều kiện học tập suốt đời cho NKT cùng với người không khuyết tật trên cơ cơ sở bình đẳng về cơ hội, sự giáo dục có định hướng.
Cùng với các chính sách chăm lo khác, Công ước yêu cầu các quốc gia thành viên tạo điều kiện để NKT tiếp cận các dịch vụ y tế như: chăm sóc và điều trị sức khỏe, phục hồi chức năng vận động. Ngoài ra, cung cấp sự chăm sóc và chương trình y tế cùng loại, cùng chất lượng, cùng tiêu chuẩn miễn phí hoặc giá thành vừa phải như đối với những người khác, hoặc những dịch vụ đặc biệt dành cho người NKT.
Ở lĩnh vực việc làm, phải công nhận quyền lao động của NKT để họ có điều kiện làm việc chính đáng và thuận lợi; tạo môi trường làm việc an toàn, bảo đảm sức khỏe cho NKT. Không những thế, các quốc gia phải thúc đẩy cơ hội việc làm và thăng tiến nghề nghiệp cho NKT trên thị trường lao động, hỗ trợ tìm kiếm việc làm, duy trì và quay trở lại làm việc; không để xảy ra tình trạng NKT làm nô dịch hoặc lao dịch và được bảo vệ khỏi hình thức lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc.
Cả NKT và thân nhân của họ cũng phải được hưởng mức sống thỏa đáng về điều kiện ăn, mặc và ở. Song song đó, thực hiện kịp thời các chế độ phúc lợi xã hội dành cho NKT nhằm cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống. Cũng như mọi công dân khác, NKT có quyền tham gia các hoạt động văn hóa, vui chơi - giải trí, thể dục - thể thao phù hợp với tình trạng khuyết tật. Qua đó, góp phần phát triển đời sống văn hóa, tinh thần và khơi gợi tiềm năng trí tuệ, khả năng sáng tạo cho NKT.
Bà Lê Thu Đãnh, Trưởng phòng Bảo trợ - Xã hội (Sở LĐ-TB&XH), cho biết: “Có thể nói, đây là hiệp ước đầu tiên mang lại vị thế và quyền hợp pháp, nhìn nhận tình trạng khuyết tật như là một vấn đề về quyền của con người. Mục đích Công ước ra đời là thúc đẩy thực hiện, đảm bảo NKT được thụ hưởng một cách đầy đủ và bình đẳng quyền con người và các quyền tự do cơ bản. Thời gian tới, Sở sẽ tiếp tục truyền thông sâu rộng nội dung của Công ước trong cộng đồng để góp phần bảo vệ lòng tự tôn, nhân phẩm của NKT và thay đổi cách nhìn nhận, việc làm của xã hội về vấn đề này”.
HỮU THỌ
Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định số 1100/QĐ-TTg về việc phê duyệt kế hoạch thực hiện Công ước của Liên Hiệp Quốc về quyền của NKT.
Quyết định yêu cầu các bộ, ngành hữu quan tổ chức thực hiện kế hoạch phải chủ động, kịp thời, có lộ trình cụ thể, phù hợp với hệ thống pháp luật Việt Nam; phát huy toàn diện trách nhiệm của các ngành, các cấp tham gia tổ chức thực hiện Công ước phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng cơ quan; bảo đảm phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, kịp thời giải quyết hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền giải quyết những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện.