Trong những ngày tháng 9 lịch sử, đoàn cán bộ, phóng viên Báo Bạc Liêu đã có chuyến tham quan di tích lịch sử hệ thống nhà tù Côn Đảo (thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu). Từ cửa biển Trần Đề, tàu Superdong vượt sóng hơn 2 giờ đồng hồ đưa đoàn tham quan cập cảng Bến Đầm, bắt đầu một cuộc hành trình trên đảo đầy ý nghĩa.
Đoàn Báo Bạc Liêu thắp nhang viếng Nghĩa trang Hàng Dương (huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu).
Chuồng cọp kiểu Pháp.
Cảnh gông, cùm tù nhân chính trị tại nhà tù Côn Đảo. Ảnh: T.Đ
CẬN CẢNH “ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN”
Trong ký ức của các thành viên trong đoàn, Côn Đảo chỉ được biết đến qua những giai thoại, sách báo hay những tập phim tài liệu. Và giờ đây, trong mắt họ, Côn Đảo vẫn còn nguyên vẹn hệ thống lưu đày mà thế giới thường gọi “địa ngục trần gian”. Chuyến xe bắt đầu lăn bánh đưa đoàn đi tham quan là lúc mọi người bắt gặp hình ảnh nhà tù hiện diện dày đặc trên đảo. Diện tích trung tâm của huyện Côn Đảo chỉ chừng 3km2, nhưng hệ thống nhà tù chiếm gần một nửa, đó là chưa kể ở vùng ngoại ô, số còn lại là đất dân cư sinh sống, đất công trình công cộng và cơ quan hành chính nhà nước. Trước năm 1975, toàn bộ Côn Đảo là hệ thống nhà tù mà người đứng đầu gọi là chúa đảo, không có cư dân sinh sống. Năm 1861, Pháp đánh chiếm Côn Đảo. Tháng 3/1862, đoàn tàu của Pháp chở 50 người tù đầu tiên đã có mặt tại Côn Đảo.
Ở Côn Đảo, hễ bắt gặp những bức tường cổ ven đường xây bằng đá núi dày 30 - 40cm, cao 5 - 6m với hệ thống kẽm gai bao trùm thì đó đều là nhà tù do thực dân Pháp, đế quốc Mỹ để lại. Trong 113 năm cai trị Côn Đảo, khoảng 20.000 người Việt Nam thuộc nhiều thế hệ (có cả người Kinh, Hoa, Khmer) đã bị giam cầm, hy sinh tại "địa ngục trần gian" này, khiến cả thế giới bàng hoàng khi sự thật được phơi ra ánh sáng.
Theo hành trình của hướng dẫn viên, đoàn tham quan chúng tôi đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác khi tận mắt chứng kiến các kiểu lưu đày, nhục hình người tù được tái dựng lại. Hệ thống bộ máy của họ lúc gọi là lao, lúc thì trại, banh… với hàng ngàn phòng giam tập thể, giam tù đặc biệt, hầm đá, hầm xay lúa, khu đập đá khổ sai, khu biệt giam, biệt lập chuồng bò, phòng tối, phòng tắm nắng (dùng để hành hạ phơi nắng, phơi mưa người tù hoặc lôi người tù ra đó để đánh đập, tra tấn)… Rùng rợn và tàn nhẫn nhất là khu chuồng cọp kiểu Pháp và chuồng cọp kiểu Mỹ. Chuồng cọp kiểu Pháp bên trên có song sắt kiên cố và có hành lang ở giữa dành cho cai ngục, trật tự đi lại kiểm soát, hành hạ người tù bằng cách đâm sào nhọn từ trên xuống, ném vôi bột và dội nước bẩn. Chuồng cọp kiểu Mỹ là loại nhà giam đặc biệt bằng bê-tông không có bệ nằm, người tù phải nằm dưới nền xi măng ẩm thấp, mỗi phòng giam chỉ rộng 1,45m, dài 2,5m (khoảng 3,6m2). Vậy mà chúng giam cầm đến 8 người/phòng. Toàn bộ tù nhân đều bị xiềng xích, ăn ở, vệ sinh ngay trong buồng giam.
Kiểu giam cầm phổ biến ở chốn địa ngục này là cấm cố trong xà lim, hầm đá, chuồng cọp, hầm phân bò, xiềng đơn, xiềng kép, xiềng hai người làm một, cùm một chân, cùm hai chân. Tra tấn bằng dùi cui, roi mây, tra điện, nước xà phòng, kim cắm móng tay, kìm sắt nung, kẹp ống chân bằng hai thanh tre. Tàn nhẫn hơn, đó là bỏ đói, bỏ khát, không cho ăn rau, nhốt chật, không cho tắm rửa, không cho đổ phân vô thùng cầu, đàn áp bằng lựu đạn cay, phi tiễn… Số liệu do Bảo tàng Côn Đảo ghi lại, lúc cao điểm ở chốn lưu đày này mỗi ngày có từ 10 - 20 người tù chết. Tại đây, cố giáo sư sử học Trần Văn Giàu đã để lại đúc kết: “Nhà tù Côn Đảo thời Pháp thuộc đã là địa ngục trần gian rồi, đến thời Mỹ ngụy là địa ngục trong địa ngục, và nói vậy cũng chưa vừa. So với cái tàn ác ở nhà tù Côn Đảo dưới chế độ Mỹ ngụy thì nhà tù của Hitler chỉ là cái ao cạn so với vực thẳm. Mỹ ngụy thâm độc hơn phát-xít Hitler biết bao nhiêu lần…”.
NỬA ĐÊM THĂM NGÔI MỒ CÔ SÁU
12 giờ đêm, dù cổng chính Nghĩa trang Hàng Dương đã hạ xuống, song từng đoàn khách vẫn lần lượt tiến vào cửa phụ. Họ vác theo những túi to đựng vàng mã, đội những mâm chứa đầy hoa quả, xôi gà, rượu bia, thậm chí cả nguyên con heo quay đi về hướng mộ chị Võ Thị Sáu.
Giữa đêm tối mênh mông, tĩnh lặng, chỉ có tiếng gió vi vu của hàng dương, mộ chị Sáu rực sáng bởi những đám lửa cháy bùng xung quanh do khách thập phương đốt nhang đèn, vàng mã. Tại đây có hai chiếc bàn gỗ dài đã được đặt dọc hai bên mộ của chị Sáu nhưng vẫn không đủ để người ta đặt đồ cúng lễ. Ngoài hoa quả, xôi gà, heo quay…, trên mộ chị Sáu còn có đủ loại đồ dùng, từ son phấn, gương lược… đến các tư trang cá nhân. Người ta chen chúc nhau khấn vái cầu mong đủ thứ từ sức khỏe, bổng lộc, tiền bạc cho đến con cái học hành đỗ đạt. Một du khách đến từ tỉnh Nam Định bảo rằng: Cô Sáu còn linh thiêng hơn cả bà Chúa Kho, cho nên bà cầu mong cô Sáu phù hộ cho buôn bán suôn sẻ, giàu có. Vì vậy bà đã cất công vác cả bao tải vàng mã vào đây và chất thành đống để đốt, mong cô Sáu phù hộ độ trì.
Anh Lê Văn Quang, nhân viên Ban quản lý Nghĩa trang Hàng Dương, cho biết: Gần 2 năm nay, du khách đến viếng Nghĩa trang Hàng Dương và mộ cô Sáu ngày càng đông. Họ không chỉ đến viếng ban ngày mà hầu hết đều ra nghĩa trang lúc nửa đêm. Họ không gọi chị Sáu mà gọi bằng cô Sáu và đến đây không chỉ để thắp hương mà còn cầu xin được phù hộ sức khỏe, làm ăn may mắn, giàu sang, thậm chí nhiều đôi vợ chồng hiếm muộn còn cầu xin con cái. Người ta cứ truyền tai nhau và ngày càng nhiều du khách đến đây, chủ yếu là khách từ các tỉnh phía Bắc.
Côn Đảo ngày càng đẹp, du khách cũng đến tham quan nhiều hơn. Để ghi nhớ công ơn của Anh hùng liệt sĩ Võ Thị Sáu và các chiến sĩ cách mạng đang yên nghỉ tại đây và để Nghĩa trang Hàng Dương đẹp hơn, huyện Côn Đảo đã cho xây dựng bức phù điêu và tượng chị Võ Thị Sáu bằng đá trong quần thể nghĩa trang. Đồng thời, Nhà tưởng niệm Anh hùng liệt sĩ Võ Thị Sáu cũng được xây mới trong một công viên cùng mang tên người nữ anh hùng này.
Những công trình ấy cũng làm cho Nghĩa trang Hàng Dương thêm đẹp và trang trọng.
TẤN ĐẠT