ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 22-11-24 04:07:21
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Xây dựng đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, phát huy dân chủ, kỷ cương, đoàn kết, đổi mới; phát triển kinh tế - xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh, đưa tỉnh Cà Mau phát triển nhanh và bền vững

Báo Cà Mau Căn cứ Kế hoạch 308-KH/BTGTW, ngày 20/1/2015 của Ban Tuyên giáo Trung ương, Kế hoạch số 111 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Cà Mau về việc tuyên truyền Đại hội Đảng bộ các cấp trong tỉnh và Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Báo Cà Mau đăng toàn văn Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cà Mau khoá XIV trình Đại hội Đại biểu lần thứ XV Đảng bộ tỉnh để các cơ quan, tổ chức, cán bộ, đảng viên, Nhân dân theo dõi đóng góp.

(Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Ðảng bộ tỉnh Cà Mau khoá XIV trình Ðại hội Ðại biểu lần thứ XV Ðảng bộ tỉnh)

LTS: Căn cứ Kế hoạch 308-KH/BTGTW, ngày 20/1/2015 của Ban Tuyên giáo Trung ương, Kế hoạch số 111 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Cà Mau về việc tuyên truyền Đại hội Đảng bộ các cấp trong tỉnh và Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Báo Cà Mau đăng toàn văn Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cà Mau khoá XIV trình Đại hội Đại biểu lần thứ XV Đảng bộ tỉnh để các cơ quan, tổ chức, cán bộ, đảng viên, Nhân dân theo dõi đóng góp.

Phần thứ nhất

KIỂM ĐIỂM 5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI LẦN THỨ XIV ĐẢNG BỘ TỈNH, NHIỆM KỲ 2010-2015

Nghị quyết Ðại hội Ðại biểu lần thứ XIV Ðảng bộ tỉnh, nhiệm kỳ 2010-2015 được xây dựng trong bối cảnh công cuộc đổi mới của đất nước đạt được những thành tựu to lớn, vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng cao. Từ những thuận lợi nêu trên nên việc xây dựng mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết nhiệm kỳ 2010-2015 với mức phấn đấu rất cao. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, thực hiện, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp; trong nước lạm phát tăng cao, kinh tế suy giảm và một số khó khăn mới phát sinh, tác động không thuận lợi đến việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Trước tình hình đó, Ðảng bộ, quân, dân trong tỉnh đã nỗ lực phấn đấu, phát huy thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức; khai thác tốt tiềm năng, thế mạnh của tỉnh. Qua 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Ðại hội XIV Ðảng bộ tỉnh đạt được những kết quả quan trọng, toàn diện trên các lĩnh vực. Song, vẫn còn nhiều khó khăn, tồn tại và yếu kém.

I- Kết quả đạt được và hạn chế, yếu kém

1- Về các mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu

Tuy còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng những mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu Ðại hội Ðảng bộ lần thứ XIV đề ra đã có 8/15 chỉ tiêu đạt và vượt, 7/15 chỉ tiêu xấp xỉ đạt. Kinh tế phát triển, tốc độ tăng trưởng tuy chưa đạt chỉ tiêu nghị quyết nhưng vẫn ở mức cao so với cả nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tích cực. Văn hoá - xã hội có nhiều tiến bộ, giảm nghèo nhanh, an sinh xã hội được quan tâm nhiều hơn và cơ bản được đảm bảo, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân tiếp tục được cải thiện. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, chính trị, xã hội ổn định. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Ðảng bộ, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị tiếp tục được nâng lên, dân chủ được mở rộng, khối đại đoàn kết toàn dân được phát huy; quan hệ đối ngoại có hiệu quả. Mục tiêu phấn đấu trở thành tỉnh phát triển trung bình khá so với cả nước tuy chưa đạt yêu cầu, nhưng đã tạo ra tiền đề quan trọng để tỉnh tiếp tục phát triển nhanh và bền vững trong giai đoạn mới.

Bên cạnh đó, còn một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội không đạt so với nghị quyết đại hội. Kinh tế phát triển chưa bền vững. Lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học - công nghệ, văn hoá - xã hội và bảo vệ môi trường có mặt còn hạn chế, yếu kém. Trật tự an toàn xã hội có lúc diễn biến phức tạp. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số cấp uỷ, tổ chức Ðảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức từng lúc, từng nơi còn hạn chế, yếu kém.

2- Nền kinh tế tỉnh duy trì được tốc độ tăng trưởng khá; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng; các ngành, lĩnh vực kinh tế quan trọng và hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển nhanh hơn so với giai đoạn trước

Tăng trưởng kinh tế (GRDP) bình quân đạt 8,3%/năm; cơ cấu kinh tế: tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 39,2% xuống 36,1%; thương mại - dịch vụ tăng từ 24,2% lên 27,6%; công nghiệp, xây dựng 36,3% (chỉ tiêu nghị quyết 42%); GRDP bình quân đầu người năm 2015 đạt 1.700 USD/người (chỉ tiêu nghị quyết là 2.150 USD). Các ngành, lĩnh vực kinh tế quan trọng tiếp tục phát triển, hạ tầng kinh tế - xã hội được tập trung đầu tư. Công tác quy hoạch và quản lý, thực hiện quy hoạch có chuyển biến tốt hơn.

Giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng tăng bình quân hằng năm 9%. Một số ngành công nghiệp có sản lượng lớn như: điện khoảng 8 tỷ kWh, đạm 800.000 tấn/năm, chế biến thuỷ sản 5 năm đạt 550.000 tấn... Ðến cuối năm 2015, tỷ lệ hộ dân sử dụng điện lưới quốc gia đạt 97%, mạng lưới điện nông thôn được quan tâm đầu tư phát triển.

Huy động các nguồn lực đẩy mạnh đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đạt kết quả quan trọng. Các công trình được đầu tư, đưa vào sử dụng như: cầu Ðầm Cùng, cầu Năm Căn, đường Quản lộ Phụng Hiệp; đường Hành lang ven biển phía Nam; đường Hồ Chí Minh, Khu Tưởng niệm Bác Hồ; đường ô-tô đến trung tâm xã, giao thông nông thôn; các công trình thuỷ lợi, lưới điện, bệnh viện, trạm y tế, công trình văn hoá - thể thao… đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống Nhân dân. Xây dựng và chỉnh trang đô thị có nhiều tiến bộ; kết cấu hạ tầng và kinh tế đô thị được quan tâm đầu tư, nhất là 3 đô thị động lực (Cà Mau, Năm Căn và Sông Ðốc); kiến trúc, cảnh quan đô thị thay đổi rõ nét; đến cuối năm 2015 tỷ lệ đô thị hoá đạt 22,6%.

Thương mại - dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá, sản phẩm đa dạng, chất lượng được nâng lên. Kinh tế dịch vụ tăng trưởng bình quân hằng năm trên 11%. Các ngành dịch vụ thương mại, ngân hàng, vận tải, y tế, bảo hiểm, viễn thông, du lịch, tư vấn… phát triển đa dạng, đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống Nhân dân. Kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh, thị trường được mở rộng trên 30 quốc gia, vùng lãnh thổ; tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm đạt 5,6 tỷ USD (chỉ tiêu nghị quyết 5 tỷ USD), là tỉnh đứng đầu cả nước về kim ngạch xuất khẩu mặt hàng tôm.

Hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, hầu hết các doanh nghiệp sau sắp xếp hoạt động có hiệu quả; đã cấp giấy chứng nhận đăng ký thành lập mới 4.000 doanh nghiệp, với tổng vốn đăng ký gần 25.000 tỷ đồng, tăng hơn so với đầu nhiệm kỳ (năm 2010) 6,39% số doanh nghiệp, số vốn đăng ký tăng hơn gấp đôi (trên 230%); cấp giấy chứng nhận đầu tư 166 dự án, với tổng vốn đầu tư 75.000 tỷ đồng, tăng hơn đầu nhiệm kỳ 44% dự án, 71% vốn đầu tư. Kinh tế hợp tác được củng cố, hoạt động hiệu quả hơn, 5 năm có 161 hợp tác xã thành lập mới, nâng tổng số toàn tỉnh có 280 hợp tác xã, hơn 5.000 xã viên và 1.700 tổ kinh tế hợp tác, hơn 80.000 tổ viên.

Sản xuất nông nghiệp ngày càng phát triển, tốc độ tăng trưởng đạt 7,5% (chỉ tiêu nghị quyết 6%). Ðề án "Nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả trong sản xuất tôm, lúa" được thực hiện có hiệu quả. Thuỷ sản tiếp tục khẳng định được vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh; diện tích nuôi tôm công nghiệp, nuôi tôm quảng canh cải tiến đạt chỉ tiêu nghị quyết đề ra. Khai thác biển hiệu quả khá, bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản được chú trọng. Sản xuất lúa theo mô hình cánh đồng lớn được mở rộng, năng suất tăng 15% so với sản xuất truyền thống. Công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng có nhiều tiến bộ; diện tích rừng thâm canh phát triển mạnh, hiệu quả kinh tế rừng, thu nhập của người dân sống nghề rừng tăng lên.

Việc huy động các nguồn lực đầu tư phát triển đạt kết quả khá tốt; tổng vốn đầu tư trong 5 năm 56.228 tỷ đồng, chiếm 30,6% GRDP (nghị quyết đề ra 38,5%). Tổng thu ngân sách Nhà nước 5 năm được 20.063 tỷ đồng, vượt 18% chỉ tiêu nghị quyết, tăng bình quân 20%/năm. Chi ngân sách 30.851 tỷ đồng, tăng bình quân 13%/năm.

Chương trình xây dựng nông thôn mới được tập trung chỉ đạo quyết liệt, có sự đồng thuận của xã hội và tạo thành phong trào mạnh mẽ trong Nhân dân; kinh tế - xã hội và kết cấu hạ tầng nông thôn phát triển khá toàn diện; toàn tỉnh bình quân đạt khoảng 11/19 tiêu chí; đến cuối năm 2015 có 17 xã đạt chuẩn nông thôn mới, bằng 20,73% số xã trong tỉnh.

Mối liên kết kinh tế được tăng cường, nhất là liên kết vùng đồng bằng sông Cửu Long, TP Hồ Chí Minh, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Tập trung đầu tư phát triển các vùng kinh tế trong tỉnh, như vùng kinh tế biển và ven biển, hình thành Khu Kinh tế Năm Căn; quy hoạch, đầu tư phát triển các khu dịch vụ kinh tế biển tại thị trấn Sông Ðốc, thị trấn Cái Ðôi Vàm... Vùng kinh tế nội địa phát triển khá tốt, bước đầu hình thành một số trung tâm thương mại, dịch vụ; tập trung đầu tư TP Cà Mau để từng bước trở thành trung tâm thương mại, dịch vụ, khoa học - công nghệ - đào tạo của tỉnh.

Thực hiện 3 đột phá chiến lược đạt kết quả bước đầu quan trọng. Tập trung huy động các nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, các dự án phát triển kinh tế - xã hội ở nhiều lĩnh vực. Cải cách hành chính được chú trọng thực hiện. Nguồn nhân lực được quan tâm thu hút, đào tạo nâng cao trình độ gắn với bố trí sử dụng khá hợp lý.

Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa đạt mục tiêu đề ra; năng lực cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Quy hoạch sản xuất chậm được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế; hạ tầng phục vụ sản xuất chưa đáp ứng yêu cầu; quy mô sản xuất nông nghiệp chủ yếu nhỏ lẻ, tích tụ ruộng đất diễn ra chậm, sản xuất hàng hoá chuyên canh, tập trung chưa nhiều, thiếu liên kết trong cung ứng dịch vụ đầu vào, đầu ra; chưa tạo ra được nhiều sản phẩm, hàng hoá nông nghiệp có chất lượng cao. Các mô hình sản xuất có hiệu quả chậm được nhân rộng, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất và đời sống còn ít. Kinh tế hợp tác ở một số lĩnh vực hiệu quả chưa cao.

Chất lượng quy hoạch còn thấp; một số chương trình, dự án lớn theo quy hoạch triển khai chậm. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển chưa đồng bộ, kết nối còn hạn chế. Một số mục tiêu Ðại hội XIV Ðảng bộ tỉnh đề ra chưa thực hiện được, như: tuyến đường tránh Quốc lộ 1A qua TP Cà Mau; nạo vét một số tuyến sông, cửa biển, tuyến đường Cà Mau - Tân Thuận... 

Môi trường đầu tư, kinh doanh chậm được cải thiện, vận dụng cơ chế chính sách chưa thật sự linh hoạt, hợp lý; hạ tầng một số khu, cụm công nghiệp, khu kinh tế chưa được đầu tư xây dựng đồng bộ, hoàn chỉnh nên thu hút đầu tư còn ít; một số doanh nghiệp phát triển chưa bền vững, năng lực cạnh tranh chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

Triển khai, thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới ở một số xã còn chậm, hiệu quả chưa cao, chưa phát huy tốt nội lực của Nhân dân, còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại nguồn vốn đầu tư của Nhà nước; các doanh nghiệp đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn còn ít.

3- Văn hoá - xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống vật chất và tinh thần Nhân dân được nâng lên

Chất lượng, hiệu quả giáo dục - đào tạo chuyển biến tích cực ở tất cả các bậc học, cấp học; đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở và triển khai phổ cập giáo dục trung học phổ thông ở một số đơn vị; phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi được triển khai thực hiện tốt, tỷ lệ huy động trẻ đến trường hằng năm đều tăng; đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên được chuẩn hoá. Cơ sở vật chất và các điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông và giáo dục chuyên nghiệp được quan tâm; tỷ lệ trường học đạt chuẩn quốc gia đạt 40%. 

Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ được triển khai, ứng dụng rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội; nhiều đề tài, dự án nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ phục vụ sản xuất, đời sống đạt hiệu quả.

Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ Nhân dân đạt kết quả khá tốt, chất lượng khám, chữa bệnh được nâng lên, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm nhanh, hiện nay còn 13% (đầu nhiệm kỳ 17,2%). Cơ sở vật chất ngành y tế được tập trung đầu tư. Số giường bệnh/vạn dân đạt 23,5 giường. Mạng lưới y tế dự phòng hoạt động khá hiệu quả, nhất là hệ thống y tế tuyến xã. Nguồn nhân lực y tế được quan tâm; nhiều kỹ thuật y học tiên tiến, trang thiết bị y tế hiện đại được đầu tư trang bị phục vụ công tác khám, chữa bệnh. Ðến cuối năm 2015 bình quân có 9,8 bác sĩ, dược sĩ đại học/vạn dân. 

Chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên; triển khai, thực hiện tốt các đề án, kế hoạch về đào tạo cán bộ, công chức và thu hút nguồn nhân lực của tỉnh, nhất là đội ngũ cán bộ nữ, trẻ, cán bộ dân tộc thiểu số, đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ ở nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước (Ðề án Mê-kông), thu hút trí thức trẻ về cơ sở…    

Quản lý Nhà nước về văn hoá được tăng cường. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” gắn với xây dựng nông thôn mới phát triển rộng khắp; phát huy tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, thực hiện nếp sống văn minh, nâng cao ý thức tự quản cộng đồng. Các di tích lịch sử được quan tâm tu bổ, tôn tạo; di sản văn hoá phi vật thể được bảo tồn. Thiết chế văn hoá - thể thao được quan tâm đầu tư xây dựng, nhu cầu sinh hoạt văn hoá và rèn luyện thể dục - thể thao của Nhân dân được đáp ứng tốt hơn.

Công tác thông tin, truyền thông, báo chí được chú trọng. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của địa phương. Công nghệ thông tin, mạng viễn thông, internet phát triển mạnh, được ứng dụng rộng rãi trong đời sống - xã hội.

Chương trình giảm nghèo, giải quyết việc làm, đảm bảo an sinh xã hội được thực hiện có hiệu quả, đã vận động gần 560 tỷ đồng Quỹ Vì người nghèo; xây dựng 13.000 căn nhà cho người nghèo; giúp hơn 36.000 hộ thoát nghèo, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 3,4%; giải quyết việc làm bình quân hằng năm đạt trên 35.000 người; đang thực hiện lộ trình tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân, tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đến cuối năm 2015 đạt 70%.

Công tác đền ơn đáp nghĩa đối với người có công với nước đảm bảo tốt hơn, trong 5 năm vận động hơn 105 tỷ đồng Quỹ Ðền ơn đáp nghĩa, xây dựng và sửa chữa 3.000 căn nhà tình nghĩa, đời sống gia đình chính sách được nâng lên rõ rệt.

Các chính sách về dân tộc được triển khai, thực hiện khá tốt. Thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Ðảng đối với đồng bào có đạo, tạo mọi điều kiện đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, sinh hoạt tôn giáo. 

Tuy nhiên, lĩnh vực văn hoá - xã hội còn những hạn chế, yếu kém:

Chất lượng cán bộ quản lý giáo dục, đội ngũ giáo viên chưa đồng đều; cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục chưa đáp ứng yêu cầu; hệ thống trường mầm non còn thiếu; xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia không đạt mục tiêu đề ra do thiếu nguồn lực.

Xây dựng và triển khai thực hiện một số quy hoạch, đề án, dự án phát triển sự nghiệp văn hoá, thể thao, du lịch còn chậm, có mặt hiệu quả thấp. Chưa có giải pháp mang tính đột phá để xúc tiến đầu tư, phát triển du lịch tương xứng với tiềm năng, lợi thế sẵn có. Thiết chế văn hoá từ tỉnh đến cơ sở còn thiếu và yếu; đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Xã hội hoá trên lĩnh vực văn hoá - thể thao còn hạn chế.

Chất lượng khám, chữa bệnh ở một số cơ sở y tế hiệu quả chưa cao, việc nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu y học vào công tác chẩn đoán, điều trị bệnh còn hạn chế; tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ chưa làm hài lòng người dân. Vệ sinh an toàn thực phẩm một số nơi chưa được đảm bảo. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế còn thấp. 

Khoa học, công nghệ có mặt chưa gắn kết chặt chẽ với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; một số đề tài chưa sát với thực tiễn, ứng dụng vào đời sống xã hội chưa nhiều, hiệu quả thấp.

Chất lượng nguồn nhân lực tuy có tiến bộ nhưng chưa đáp ứng yêu cầu; tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp. Cán bộ khoa học, công nhân có kỹ thuật, có tay nghề cao chưa nhiều. Hoạt động thông tin, tuyên truyền, quản lý báo chí, xuất bản có mặt còn hạn chế.

Công tác đào tạo nghề chưa gắn chặt với nhu cầu xã hội; việc phát triển các cơ sở sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm mới còn chậm, chưa đáp ứng nhu cầu lao động làm việc; giảm nghèo thiếu bền vững. Ðời sống một bộ phận gia đình chính sách còn khó khăn. Tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số còn cao, thực hiện chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất gặp khó khăn do không có quỹ đất.

4- Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu được chú trọng

Công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường được chú trọng. Các nguồn tài nguyên quan trọng đã được tổ chức điều tra, đề xuất và thực hiện giải pháp quản lý, bảo vệ, khai thác hợp lý; quản lý chặt chẽ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; chú trọng khai thác hợp lý quỹ đất phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Công tác bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học có tiến bộ.

Triển khai, thực hiện Chương trình Hành động của Tỉnh uỷ về bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng đến năm 2020 đạt kết quả bước đầu; các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng cơ bản được giám sát, xử lý. Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường tiếp tục được thực hiện mang lại hiệu quả. Chủ động thực hiện tốt công tác phòng, chống lụt bão, giảm nhẹ thiên tai, tìm kiếm cứu nạn góp phần hạn chế thiệt hại.

Tuy nhiên, khả năng kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường; phát hiện sai phạm còn nhiều hạn chế, ô nhiễm môi trường có chiều hướng gia tăng ở những khu vực đông dân cư tập trung, ven đô thị. Các giải pháp ứng phó thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng chưa phát huy tác dụng tốt. Sạt lở đất, triều cường diễn biến phức tạp, gây thiệt hại rừng và tài sản của Nhân dân. Thiên tai, tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu ngày càng tăng mạnh, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của Nhân dân. Công tác quản lý, bảo vệ rừng và nguồn tài nguyên dưới tán rừng có lúc, có nơi chưa chặt chẽ.

5- Nhiệm vụ quốc phòng, an ninh được tăng cường, đảm bảo ổn định, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội

Tập trung triển khai, quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương về bảo vệ Tổ quốc, xây dựng khu vực phòng thủ... Ý thức về nhiệm vụ giữ gìn an ninh, bảo vệ Tổ quốc được nâng lên; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn thế trận an ninh Nhân dân ngày càng vững chắc. Thường xuyên củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng quân đội Nhân dân, công an Nhân dân theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Hoàn thành Ðề án Quy hoạch khu vực phòng thủ của tỉnh giai đoạn 2011-2015, định hướng đến 2020.

Quán triệt và triển khai thực hiện tốt các chủ trương, quan điểm của Ðảng, Nhà nước về xây dựng, quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia. Giữ vững chủ quyền biển, đảo; xây dựng thế trận biên phòng toàn dân vững mạnh.

Công tác huấn luyện, diễn tập, giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng được triển khai thực hiện theo kế hoạch, có nhiều đổi mới, sát tình hình, bảo đảm về số lượng và chất lượng.

Tình hình an ninh chính trị trên địa bàn tỉnh tiếp tục giữ vững ổn định. Chủ động phòng, chống có hiệu quả âm mưu, hoạt động "diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ" của các thế lực thù địch.

Công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành về phòng, chống tội phạm, phòng, chống ma tuý… được đẩy mạnh. Mở nhiều cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm có hiệu quả. Phòng ngừa, triệt xoá các băng, nhóm tội phạm và tệ nạn xã hội được tăng cường. Công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông có nhiều chuyển biến tích cực.

Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được triển khai sâu rộng, hoạt động hoà giải ở cơ sở được chú trọng, tỷ lệ hoà giải thành đạt cao; ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật trong xã hội từng bước được nâng lên.

Tuy nhiên, công tác nắm, dự báo, tổng hợp, đánh giá tình hình có lúc chưa kịp thời; công tác đấu tranh phòng, chống một số loại tội phạm hiệu quả chưa cao. Tình hình tranh chấp, khiếu kiện, tội phạm, tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông đã kiềm chế nhưng còn ở mức cao.

6- Hoạt động đối ngoại, xúc tiến thương mại có hiệu quả

Quán triệt và thực hiện đúng các chủ trương, nghị quyết, quy định của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Hoạt động đối ngoại kinh tế, đối ngoại Nhân dân được tăng cường.

Tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch ở một số nước. Ðến nay, tỉnh đã thiết lập quan hệ với 85 tổ chức phi Chính phủ và tổ chức quốc tế, trong đó có 79 tổ chức có chương trình, dự án đầu tư và hỗ trợ nhân đạo tại tỉnh với 150 chương trình, dự án, đóng góp thiết thực phát triển kinh tế - xã hội.

Tuy nhiên, hợp tác kinh tế, xúc tiến thương mại, mời gọi đầu tư trên một số lĩnh vực hiệu quả chưa cao, chưa thu hút được dự án lớn đầu tư vào địa bàn tỉnh. Công tác kiểm tra, giám sát, thẩm định, quản lý, sử dụng nguồn lực viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài có nơi, có lúc thiếu chặt chẽ, hiệu quả thấp.

7- Công tác dân vận, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể Nhân dân có chuyển biến tích cực

Các cấp uỷ Ðảng tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác dân vận; nội dung, phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ Ðảng về công tác dân vận có bước đổi mới theo hướng dân chủ, sâu sát cơ sở và Nhân dân; quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chăm lo các vấn đề dân sinh, dân chủ, thực hiện tốt các chính sách về an sinh xã hội.

Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; những vấn đề liên quan đến dân sinh đều thực hiện theo phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra"; đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được củng cố và tăng cường, sự đồng thuận trong xã hội không ngừng nâng lên.

Công tác dân vận của chính quyền có tiến bộ, nhất là trong thực hiện cải cách thủ tục hành chính; tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà giảm dần. Công tác dân vận của lực lượng vũ trang được tăng cường.

Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Nhân dân tiếp tục được đổi mới; thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động, tập hợp Nhân dân thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thực hiện có hiệu quả Quy chế công tác dân vận trong hệ thống chính trị, nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội; đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, phát huy, nhân rộng các mô hình “Dân vận khéo”, các cuộc vận động... được Nhân dân hưởng ứng tích cực, góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Song, từng lúc, hoạt động của đoàn thể ở một số nơi hiệu quả chưa cao; chưa kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của đoàn viên, hội viên, các tầng lớp Nhân dân. Sự phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể với các ngành chức năng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị có lúc, có nơi chưa tốt; việc quản lý đoàn viên, hội viên từng lúc chưa chặt chẽ. Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận một số nơi chưa đáp ứng yêu cầu; một bộ phận cán bộ có biểu hiện hành chính hoá trong nhiều hoạt động của các đoàn thể; khả năng tập hợp, vận động Nhân dân hiệu quả còn thấp. Công tác dân vận chính quyền và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở một số nơi chưa tốt.

8- Hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền các cấp được nâng lên

Hội đồng Nhân dân các cấp không ngừng đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, xây dựng, triển khai các chủ trương, chính sách kịp thời, phù hợp; thực hiện tốt chương trình giám sát, kịp thời kiến nghị xử lý hạn chế,  vướng mắc trong chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện đúng quy định việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Hội đồng Nhân dân bầu.

Uỷ ban Nhân dân các cấp tiếp tục được củng cố, kiện toàn, phương thức hoạt động có nhiều đổi mới, năng lực lãnh đạo, điều hành và hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước được nâng lên.

Ðội ngũ cán bộ, công chức, viên chức từng bước được chuẩn hoá phù hợp với chức danh, vị trí việc làm; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực thực thi công vụ có tiến bộ, cơ bản đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Công tác cải cách hành chính được quan tâm chỉ đạo thực hiện trên nhiều lĩnh vực, triển khai đồng bộ về thể chế, cơ cấu tổ chức bộ máy cán bộ và thủ tục hành chính. Tập trung rà soát, đơn giản hoá, công bố và công khai thủ tục hành chính của các ngành, các cấp đạt kết quả nhất định. Thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông, cơ bản giải quyết kịp thời thủ tục hành chính cho doanh nghiệp và người dân. Thành lập mới Sở Ngoại vụ.

Các phong trào thi đua yêu nước gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị địa phương, đơn vị được phát động rộng khắp ở các ngành, các cấp. Công tác khen thưởng từng bước đi vào nền nếp, nâng cao chất lượng, thể hiện được sự tôn vinh, ghi nhận công lao đóng góp của các tập thể, cá nhân; khuyến khích kịp thời tinh thần thi đua yêu nước trên các lĩnh vực.

Các mục tiêu, quan điểm, phương hướng theo “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” được triển khai thực hiện đạt kết quả quan trọng. Công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án dân sự chuyển biến tích cực; kịp thời phát hiện và xử lý tội phạm; hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp được thực hiện đảm bảo quy định của pháp luật; các phiên toà được đổi mới theo tinh thần cải cách tư pháp, chất lượng xét xử từng bước được nâng lên (điều tra, khám phá án đạt 95%; xét xử đạt 97%); tổ chức, bộ máy cơ quan thi hành án dân sự được quan tâm củng cố, kiện toàn, nhiều bất cập, hạn chế đã được tháo gỡ, tạo sự chuyển biến tốt trong thi hành án dân sự, tỷ lệ thi hành án hằng năm được nâng lên.

Công tác thanh tra đạt kết quả tích cực, xử lý sau thanh tra được đẩy mạnh, góp phần quan trọng vào việc phát hiện, xử lý nghiêm vi phạm, tiêu cực, tham nhũng; kiến nghị khắc phục kịp thời những khó khăn, bất cập trong cơ chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước trên nhiều lĩnh vực.

Tuy nhiên, chất lượng giám sát của Hội đồng Nhân dân ở một số nơi hiệu quả chưa cao. Hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực còn hạn chế.

Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu, thủ tục hành chính còn rườm rà, gây phiền hà cho doanh nghiệp và người dân. Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức tinh thần trách nhiệm còn thấp; trình độ, năng lực chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Phong trào thi đua ở một số lĩnh vực chưa thật sự đi vào chiều sâu; chưa trở thành động lực thúc đẩy mạnh mẽ việc phấn đấu thực hiện hoàn thành nhiệm vụ chính trị.

Công tác phối hợp giữa các cơ quan tư pháp từng lúc thiếu chặt chẽ; giám định tư pháp một số lĩnh vực còn vướng mắc; một số vụ án, vụ việc còn kéo dài thời gian, gây dư luận không tốt. Chất lượng một số đoàn thanh tra còn thấp, còn những vụ xử lý sau thanh tra thiếu kiên quyết, một số vụ còn kéo dài.

9- Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo có chuyển biến tích cực

Các chủ trương, chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng, lãng phí được triển khai, tổ chức thực hiện nghiêm túc. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đạt kết quả bước đầu trên một số lĩnh vực. Ðã chỉ đạo xử lý dứt điểm một số vụ án kéo dài, dư luận quan tâm.

Các giải pháp phòng ngừa được triển khai, thực hiện đồng bộ, tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Hoạt động của đa số các cơ quan, đơn vị được công khai, minh bạch; chuyển đổi vị trí công tác đối với một số chức danh theo quy định. Công tác kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản được thực hiện tốt.

Công tác tiếp dân, xử lý đơn, thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân được tăng cường. Các vụ việc phức tạp, tồn đọng, kéo dài được rà soát, tập trung giải quyết và báo cáo, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết dứt điểm. Khiếu kiện đông người giảm đáng kể.

Tuy nhiên, một số giải pháp phòng ngừa tham nhũng chưa được thực hiện tốt; một số vụ án còn phải tiếp tục chỉ đạo xử lý. Tính tiên phong, gương mẫu của một bộ phận cán bộ, đảng viên và người đứng đầu trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa cao. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể ở một số nơi chưa phát huy đúng mức, hiệu quả giám sát, phản biện còn thấp, chưa phát huy tốt vai trò của Nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

Giải quyết khiếu nại, tố cáo tuy được tập trung thực hiện, có chuyển biến đáng kể, nhưng số vụ mới phát sinh còn nhiều; một số vụ kéo dài đã tập trung giải quyết, cấp có thẩm quyền đã thông báo chấm dứt giải quyết, nhưng đương sự vẫn không chấp hành, tiếp tục yêu cầu, nhất là khi có các đoàn cán bộ Trung ương đến làm việc, gây mất trật tự tại địa phương.

10- Công tác xây dựng Đảng được chú trọng và đạt kết quả quan trọng

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) về xây dựng Ðảng đạt kết quả bước đầu quan trọng. Các cấp uỷ, tổ chức Ðảng, cán bộ, đảng viên tự giác thực hiện nghiêm túc việc tự phê bình và phê bình, khắc phục, sửa chữa khuyết điểm, hạn chế của tập thể, cá nhân. Ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm, tính tiên phong gương mẫu, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị ở từng cấp, từng ngành, của cán bộ, đảng viên có chuyển biến tích cực.

Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được triển khai sâu rộng; tạo sự chuyển biến tích cực, hiệu quả trong học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức của Bác trong cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và Nhân dân.

Tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên và Nhân dân ổn định; ý thức cảnh giác cách mạng được nâng lên, tích cực đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái, lệch lạc, âm mưu hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, nhất là những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ.

Tổ chức bộ máy các cơ quan trong hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở tiếp tục được củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động. Thành lập Ðảng uỷ khối Doanh nghiệp trực thuộc Tỉnh uỷ và thành lập lại Ban Nội chính Tỉnh uỷ; điều chỉnh, bổ sung chức năng, nhiệm vụ một số cơ quan, đơn vị, tổ chức Ðảng phù hợp với tình hình địa phương. Tổ chức cơ sở Ðảng phát huy khá tốt vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở. Chất lượng sinh hoạt cấp uỷ, sinh hoạt đảng bộ, chi bộ chuyển biến tích cực. Kết nạp đảng viên vượt kế hoạch.

Công tác cán bộ được thực hiện dân chủ, chặt chẽ, đúng quy chế, quy định, quy trình; mạnh dạn sắp xếp, thay thế cán bộ không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; tuyển chọn đào tạo đưa trí thức trẻ về cơ sở bước đầu phát huy hiệu quả. Chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên từng bước nâng lên, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Ðảng bộ. Chỉ đạo, thực hiện nghiêm túc quy định về chất vấn trong Ðảng; việc lấy phiếu tín nhiệm và bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.

Thường xuyên rà soát, thẩm tra, xác minh, kết luận và thực hiện đúng chính sách quản lý, sử dụng cán bộ, đảng viên có vấn đề lịch sử chính trị; công tác nắm, quản lý, xử lý vấn đề chính trị hiện nay đúng quy định.

Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Ðảng được các cấp uỷ, tổ chức đảng quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện và đạt nhiều kết quả; đội ngũ cán bộ kiểm tra, giám sát được củng cố, kiện toàn. Uỷ ban kiểm tra các cấp tham mưu cấp uỷ và thực hiện kiểm tra, giám sát chặt chẽ, hiệu quả. Các cuộc kiểm tra, giám sát, nhất là các vụ việc bức xúc, nổi cộm, phát sinh ở các cấp cơ bản được kiểm tra, thanh tra, xử lý kịp thời, đúng quy định, chất lượng được đảm bảo, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp uỷ, tổ chức Ðảng và tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Ðảng.

Công tác dân vận của Ðảng được tăng cường và có bước đổi mới. Cùng với việc cụ thể hoá, ban hành các chủ trương, các cấp uỷ phân công các ban, ngành, cấp uỷ viên, cán bộ, đảng viên phụ trách địa bàn dân cư, giúp đỡ hộ nghèo, thực hiện an sinh xã hội; phát huy vai trò Nhân dân đóng góp xây dựng Ðảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể được dư luận đồng tình, ủng hộ; lòng tin của Nhân dân đối với Ðảng ngày càng tăng.

Phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ, tổ chức Ðảng tiếp tục được đổi mới. Các cấp uỷ, tổ chức Ðảng vừa đảm bảo sự lãnh đạo, vừa phát huy vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Việc cụ thể hoá, triển khai, tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Ðảng, của cấp uỷ ngày càng thiết thực, khả thi. Phân công trợ giúp của các ngành cấp tỉnh, cấp huyện với cơ sở có hiệu quả thiết thực, đã góp phần đổi mới phong cách, lề lối làm việc, khắc phục dần tình trạng hành chính hoá của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Công tác cải cách hành chính trong Ðảng được tập trung triển khai thực hiện.

Tuy nhiên, công tác xây dựng Ðảng còn những hạn chế, yếu kém:

Một số nơi biểu hiện nể nang, né tránh, ngại va chạm trong kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI). Kế hoạch khắc phục, sửa chữa khuyết điểm, hạn chế đã được chỉ ra khi kiểm điểm tự phê bình và phê bình ở một số cấp uỷ, lãnh đạo đơn vị, địa phương còn chung chung; việc đôn đốc, kiểm tra, theo dõi thực hiện kế hoạch này chưa thường xuyên.

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh một số nơi có biểu hiện buông lơi, thiếu chiều sâu, chưa đi vào nền nếp và thường xuyên. Công tác dự báo, nắm diễn biến tư tưởng, định hướng dư luận xã hội có lúc, có việc chưa nhạy bén, kịp thời.

Công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên ở một số nơi hiệu quả còn thấp. Tính tiền phong, gương mẫu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ của một số cán bộ, đảng viên chưa cao, đạo đức, lối sống thiếu tiêu biểu. Chất lượng sinh hoạt Ðảng nâng lên chưa rõ nét, chưa đáp ứng yêu cầu; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở Ðảng còn hạn chế. Kết nạp đảng viên một số trường hợp chưa chú trọng chất lượng.

Nhận xét, đánh giá cán bộ có trường hợp còn chậm, chưa sát; quy hoạch, đào tạo cán bộ, nhất là cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ khoa học đầu ngành chưa theo kịp yêu cầu; sắp xếp, bố trí cán bộ có trường hợp chưa hợp lý.

Công tác kiểm tra, giám sát một số trường hợp chưa sâu, chưa kịp thời; tỷ lệ cán bộ, đảng viên vi phạm còn cao, có việc xử lý còn chậm. Ðổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng chưa đáp ứng yêu cầu; cải cách hành chính trong Ðảng chưa chuyển biến rõ nét, thủ tục còn rườm rà.

II- Đánh giá tổng quát và nguyên nhân

1- Đánh giá tổng quát

5 năm qua, Ðảng bộ và quân, dân tỉnh nhà đã nỗ lực quyết tâm cao lãnh đạo, tổ chức thực hiện Nghị quyết Ðại hội lần thứ XIV Ðảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2010-2015 đạt được kết quả khá toàn diện trên các lĩnh vực. Kinh tế duy trì tăng trưởng khá. Thực hiện các khâu đột phá chiến lược đạt được một số kết quả tích cực, nhất là xây dựng kết cấu hạ tầng, trong đó có một số công trình trọng điểm, then chốt, tạo động lực phát triển. Văn hoá - xã hội có nhiều tiến bộ, an sinh xã hội và đời sống của Nhân dân tiếp tục cải thiện. Quốc phòng, an ninh được giữ vững; công tác đối ngoại có hiệu quả. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm có tiến bộ. Xây dựng Ðảng, xây dựng hệ thống chính trị có nhiều chuyển biến rõ nét, nội bộ đoàn kết. Triển khai, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) về xây dựng Ðảng gắn với tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp uỷ, tổ chức Ðảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền các cấp, củng cố niềm tin của Nhân dân, tạo sự đồng thuận xã hội.

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, một số lĩnh vực vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Một số chỉ tiêu chưa đạt so với nghị quyết; kinh tế tăng trưởng khá, nhưng chưa bền vững; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm; sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế chưa cao; kết cấu hạ tầng tuy được tập trung đầu tư nhưng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; chất lượng nguồn nhân lực còn thấp; đời sống một bộ phận Nhân dân còn khó khăn. Năng lực lãnh đạo, điều hành của một số cấp uỷ, chính quyền chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác vận động Nhân dân còn hạn chế, một số chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước chậm đến được với nhân dân. Một số phong trào hành động cách mạng chưa duy trì thường xuyên, sơ kết, tổng kết, khen thưởng chưa kịp thời.

2- Nguyên nhân

- Nguyên nhân đạt được:

Trung ương Ðảng, Quốc hội, Chính phủ đã kịp thời đề ra những chủ trương, chính sách phù hợp; Ðảng bộ và quân, dân trong tỉnh phát huy truyền thống cách mạng, tinh thần tự lực, tự cường, với quyết tâm chính trị cao; kế thừa và phát triển những thành quả đạt được, bài học kinh nghiệm của các nhiệm kỳ trước. Nội bộ Ðảng và Nhân dân đoàn kết, nhất trí, nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, tích cực tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Ðảng bộ.

Các cấp uỷ Ðảng, chính quyền, các ngành triển khai thực hiện nghiêm túc nghị quyết đại hội, nâng cao trách nhiệm, đổi mới phương thức lãnh đạo, phát huy vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị; kịp thời đề ra nhiều chủ trương, nghị quyết chỉ đạo toàn diện, thực hiện nhiều chương trình phát triển kinh tế - xã hội thiết thực, hiệu quả, hợp lòng dân. Tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm chỉ đạo gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát, giải quyết kịp thời khó khăn cho cơ sở, doanh nghiệp.

Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) về xây dựng Ðảng,  gắn với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã góp phần tạo thêm động lực, tinh thần làm việc, lao động, ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của Ðảng bộ tỉnh.

- Nguyên nhân hạn chế, yếu kém:

Những hạn chế, khuyết điểm trong nhiệm kỳ qua có nguyên nhân khách quan do cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính thế giới tác động ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế của đất nước và của tỉnh; mặt khác, do sự điều chỉnh một số mục tiêu, chỉ tiêu, cơ chế, chính sách kinh tế vĩ mô; xuất phát điểm nền kinh tế tỉnh thấp… Nhưng chủ yếu do các nguyên nhân chủ quan sau:

- Công tác quán triệt và tổ chức thực hiện một số chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước có mặt còn chậm, chưa kịp thời đến với người dân.

- Việc xác định một số chỉ tiêu thiếu tính khả thi, chưa có nguồn lực để cân đối thực hiện; một số chương trình, dự án quan trọng triển khai chậm đã ảnh hưởng đến tiến độ phát triển kinh tế - xã hội.

- Năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp uỷ Ðảng chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Một số tổ chức cơ sở Ðảng chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo. Hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước của bộ máy chính quyền trên một số lĩnh vực còn hạn chế.

- Công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc thực hiện có mặt chưa thường xuyên. Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức, trong đó có người đứng đầu cơ quan, đơn vị chưa thật sự gương mẫu, thiếu quyết tâm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Công tác phối hợp giữa các ngành, các địa phương có lĩnh vực, có mặt chưa chặt chẽ, nhịp nhàng.

- Công tác cải cách hành chính, cải cách tư pháp chưa có chuyển biến tích cực; chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh còn thấp làm hạn chế đầu tư và tăng trưởng kinh tế của tỉnh.

III- Bài học kinh nghiệm

Thứ nhất, phải nắm vững và vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương của Ðảng vào tình hình thực tế của địa phương, chủ động nắm thời cơ, đề ra giải pháp đúng, bước đi phù hợp, cách làm sáng tạo, có quyết tâm cao trong quá trình tổ chức thực hiện.

Thứ hai, trong lãnh đạo, chỉ đạo phải làm tốt công tác dự báo, phân tích, đánh giá sát tình hình, lựa chọn và tập trung giải quyết những vấn đề trọng tâm, trọng điểm; đề ra chủ trương, chính sách phải xuất phát từ lợi ích Nhân dân, huy động sức mạnh tổng hợp của Nhân dân để thực hiện. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo phải sâu sát, cụ thể và quyết liệt; xác định rõ trách nhiệm của từng cấp, từng ngành. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết đánh giá kết quả thực hiện.

Thứ ba, bảo đảm giữ vững ổn định chính trị - xã hội, quốc phòng - an ninh; quản lý chặt địa bàn, kịp thời nắm tình hình và dự báo, xử lý các tình huống, không để bị động, bất ngờ, tạo môi trường thuận lợi để kinh tế - xã hội phát triển; đề cao tính kỷ luật, nghiêm minh trong việc thực thi pháp luật về quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực.

Thứ tư, xây dựng Ðảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Coi trọng việc giữ gìn sự đoàn kết, nhất trí trong Ðảng. Ðánh giá, bố trí đúng cán bộ, nhất là những đồng chí đứng đầu; xây dựng đội ngũ cán bộ có quyết tâm cao, năng động, sáng tạo, có đủ phẩm chất, năng lực. Ðề cao tính tự giác rèn luyện, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Thứ năm, tăng cường công tác tuyên truyền, tạo được sự đồng thuận cao trong Nhân dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động tối đa, hợp lý nguồn lực xã hội.

Phần thứ hai

MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN 5 NĂM 2015-2020

Nhận định những năm tới, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ; kinh tế thế giới được dự báo phục hồi chậm và còn nhiều biến động khó lường; tình hình chính trị - an ninh thế giới, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo... diễn biến gay gắt và phức tạp.

Ở trong nước, những thành tựu và kinh nghiệm của 30 năm đổi mới làm tăng thế và lực, uy tín của đất nước; sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên; nước ta tiếp tục hội nhập sâu rộng hơn với thế giới. Kinh tế từng bước lấy lại đà tăng trưởng, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức.

Tình hình trên sẽ tác động nhất định đến việc xây dựng, triển khai, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh tỉnh nhà, đòi hỏi các cấp uỷ Ðảng, chính quyền và Nhân dân phải nỗ lực, phấn đấu mạnh mẽ hơn nữa để hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.

I- Mục tiêu

1- Mục tiêu tổng quát

Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp uỷ Đảng, xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ, kỷ cương, tăng cường đoàn kết, đổi mới; khai thác có hiệu quả tiềm năng, nguồn lực, thế mạnh của tỉnh, thực hiện tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, phát triển toàn diện cả chiều rộng và chiều sâu; chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển đô thị, xây dựng nông thôn mới; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; ứng dụng khoa học - công nghệ trong tất cả các ngành, lĩnh vực; đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân; đảm bảo quốc phòng, an ninh; mở rộng quan hệ đối ngoại, đưa tỉnh Cà Mau phát triển nhanh và bền vững.

2- Các chỉ tiêu chủ yếu

2.1- Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP theo giá cố định năm 2010), bình quân tăng 7-7,5%/năm (trong đó: Khu vực ngư, nông, lâm nghiệp tăng từ 3,8-4%; Khu vực công nghiệp, xây dựng tăng 8%; Khu vực dịch vụ tăng từ 10-11%).

2.2- Cơ cấu kinh tế (đến năm 2020):

+ Ngư, nông, lâm nghiệp chiếm 30%.

+ Công nghiệp, xây dựng chiếm 38%.

+ Dịch vụ chiếm 32%.

2.3- GRDP bình quân đầu người đến năm 2020 đạt từ 3.000-3.200 USD.

2.4- Tổng vốn đầu tư xã hội đến năm 2020 chiếm khoảng 27% GRDP (84.000 tỷ đồng).

2.5- Thu ngân sách Nhà nước 5 năm 29.000 tỷ đồng.

2.6- Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm đạt từ 7,5-8 tỷ USD trở lên.

2.7- Tỷ lệ đô thị hoá đến năm 2020 đạt 37% (hiện nay đạt 22,6%).

2.8- Tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội đến năm 2020 còn dưới 50%.

2.9- Ðến năm 2020 tỷ lệ lao động xã hội qua đào tạo (không kể bồi dưỡng, kèm truyền nghề) đạt từ 45% trở lên.

2.10- Giải quyết việc làm 5 năm cho 195.000 người.

2.11- Trường đạt chuẩn quốc gia 5 năm đạt thêm 164 trường, tương đương 30%.

2.12- Ðến năm 2020 đạt 12 bác sĩ/vạn dân.

2.13- Ðến năm 2020 số giường bệnh/vạn dân (không tính giường trạm y tế xã) đạt 26 giường.

2.14- Ðến năm 2020 tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 80%.

2.15- Hộ nghèo giảm bình quân hằng năm 1,5% (khi Trung ương điều chỉnh chuẩn hộ nghèo sẽ điều chỉnh chỉ tiêu này).

2.16- Ðến năm 2020 có 50% xã trở lên đạt tiêu chí nông thôn mới.

2.17- Ðến năm 2020 tỷ lệ dân cư thành thị được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 100%.

2.18- Ðến năm 2020 tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 90%.

2.19- Ðến năm 2020 tỷ lệ che phủ của rừng và cây phân tán đạt 26%.

2.20- 5 năm phấn đấu kết nạp 10.000 đảng viên.

II- Quan điểm chỉ đạo

- Nhất quán quan điểm phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Ðảng là then chốt, văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội, quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; thực hiện toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới. 

- Vận dụng hợp lý, linh hoạt các cơ chế, chính sách, các nguồn lực trong và ngoài tỉnh, khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, gắn kết hài hoà giữa phát triển đô thị với xây dựng nông thôn mới; thu hẹp dần khoảng cách giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị; thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, cải thiện đời sống của Nhân dân.

- Hội nhập sâu, hiệu quả kinh tế quốc tế; liên kết các vùng, các trung tâm kinh tế, khoa học - công nghệ của đất nước.

- Huy động sức mạnh tổng hợp của Nhân dân đi đôi với bồi dưỡng sức dân, coi trọng và phát huy vai trò của các doanh nghiệp, giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Phát huy dân chủ, đoàn kết, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, tích cực đổi mới.

- Nâng cao vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ Ðảng; xây dựng Ðảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tạo sự đồng thuận xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên toàn tâm, toàn ý, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.

III- Nhiệm vụ và giải pháp

1- Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường và động lực phát triển kinh tế - xã hội

Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đảm bảo phù hợp để nền kinh tế vận hành theo quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh, bền vững.

Tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành gắn với rà soát, điều chỉnh kịp thời các quy hoạch phù hợp với tình hình thực tế và nguồn lực của tỉnh. Phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp; xây dựng và phát triển đồng bộ các loại thị trường; giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hoá, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội. Nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, tạo điều kiện để từng bước xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp. Khuyến khích tích tụ ruộng đất, tạo điều kiện kinh tế tư nhân, kinh tế gia trại, trang trại và kinh tế hộ phát triển.

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường thuận lợi để các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh phát triển nhanh và bền vững. Thu hút nguồn lực của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài vào địa bàn tỉnh.

2- Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh

- Cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh phát triển cả chiều rộng và chiều sâu:

Thực hiện mục tiêu tái cơ cấu kinh tế tỉnh theo hướng phát huy tối đa nội lực, tập trung khai thác tiềm năng và lợi thế so sánh, tăng cường liên kết phát triển, nhất là liên kết vùng, đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược, trọng tâm là cải cách hành chính, cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh; kêu gọi đầu tư, xây dựng các dự án, công trình trọng điểm; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, đảm bảo tính kết nối cao, nhằm phát huy hiệu quả đầu tư, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

- Phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới:

Huy động các nguồn lực đầu tư thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững; bố trí lại sản xuất phù hợp với lợi thế của tỉnh và nhu cầu của thị trường; phát triển sản xuất hàng hoá tập trung gắn với tập huấn, đào tạo nghề, chuyển giao và ứng dụng khoa học - công nghệ, đầu tư xây dựng các vùng sản xuất ứng dụng công nghệ cao; đầu tư hạ tầng phục vụ sản xuất; đẩy mạnh cơ giới hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển các ngành nghề dịch vụ nông nghiệp ở nông thôn; xây dựng và nhân rộng mô hình sản xuất gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá theo hướng liên kết chuỗi giá trị đối với các mặt hàng chủ lực như: tôm, lúa, gỗ rừng trồng, sản phẩm chăn nuôi và khai thác thuỷ sản… Tăng cường quản lý chất lượng sản phẩm đầu vào, đầu ra trong sản xuất nông nghiệp.

Ðẩy mạnh hợp tác, liên kết từ khâu sản xuất, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm để phát triển sản xuất với quy mô lớn, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Tạo điều kiện để doanh nghiệp đầu tư phát triển nuôi tôm công nghiệp công nghệ cao ở vùng sản xuất tập trung; hướng dẫn Nhân dân phát triển nuôi tôm công nghiệp, nuôi tôm quảng canh cải tiến theo hướng bền vững; phát triển mạnh nuôi tôm sinh thái ở vùng rừng ngập mặn, nuôi tôm - lúa ở những vùng có hạ tầng thuỷ lợi đảm bảo, phấn đấu đến năm 2020 diện tích nuôi tôm thâm canh và siêu thâm canh đạt khoảng 20.000 ha, diện tích nuôi tôm quảng canh cải tiến đạt từ 120.000 ha trở lên; tổng sản lượng thuỷ sản 5 năm đạt 2,8 triệu tấn (bình quân tăng 3,9%/năm); tổng sản lượng lúa 5 năm đạt 3 triệu tấn (bình quân tăng 1,3%/năm). Tiếp tục thực hiện Chiến lược biển Việt Nam, thực hiện tốt chính sách đầu tư phát triển khai thác hải sản xa bờ gắn với bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, bảo vệ an ninh chủ quyền quốc gia trên biển, đảo.

Thực hiện tốt chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; tiếp tục mở rộng diện tích sản xuất lúa theo cánh đồng lớn, diện tích lúa hữu cơ; chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nâng cao hiệu quả sản xuất đối với một số vùng đất nông nghiệp bị xâm nhập mặn do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, nước biển dâng; phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung, đồng thời hướng dẫn chăn nuôi quy mô hộ an toàn sinh học. Tập trung chỉ đạo cải tạo vườn tạp trồng rau màu...; tạo điều kiện thuận lợi để phát triển phong trào sinh vật cảnh vừa tạo cảnh quan môi trường, vừa góp phần tăng thu nhập.

Tập trung các nguồn lực đầu tư khôi phục, bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ ven biển, bãi bồi; bảo vệ tốt rừng đặc dụng gắn với phát triển du lịch sinh thái; đầu tư áp dụng các biện pháp thâm canh, xen canh gắn với chế biến, tiêu thụ các sản phẩm gỗ để nâng cao hiệu quả sản xuất đối với khu vực rừng kinh tế; nâng cao đời sống người dân sống chủ yếu bằng nghề rừng.

Tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Tập trung chỉ đạo, huy động thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.

- Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp:

Vận dụng cơ chế, chính sách, điều kiện và lợi thế của tỉnh để kêu gọi đầu tư phát triển các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp mà tỉnh có nhiều lợi thế; sớm đầu tư hoàn thiện hạ tầng Khu Kinh tế Năm Căn, các khu, cụm công nghiệp theo quy hoạch để kêu gọi đầu tư.

Phối hợp, liên kết với Tập đoàn Dầu khí Quốc gia ổn định năng lực sản xuất khí - điện - đạm; mở rộng sản xuất thêm những sản phẩm mới có giá trị gia tăng cao. Phát triển các ngành công nghiệp mới.

Chú trọng phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản theo hướng gắn với quy hoạch sản xuất vùng nguyên liệu; công nghiệp cơ khí đóng mới và sửa chữa tàu thuyền; công nghiệp cơ khí phục vụ nông nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp phụ trợ; phấn đấu sản lượng chế biến hàng thuỷ sản 5 năm đạt trên 850.000 tấn. Tiếp tục đầu tư phát triển hệ thống lưới điện nông thôn, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản hộ dân trong tỉnh sử dụng điện lưới quốc gia.

Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ nhằm tăng tỷ trọng sản phẩm tinh chế có giá trị gia tăng cao, đồng thời đa dạng hoá sản phẩm hàng hóa xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Tích cực xây dựng và đăng ký thương hiệu, nhãn hiệu hàng hoá.

Tăng cường các hoạt động khuyến công, khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, mở rộng sản xuất hàng tiểu thủ công nghiệp, nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường.

- Phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch:

Hình thành các trung tâm thương mại đáp ứng tốt việc cung cầu hàng hoá phục vụ nhu cầu sản xuất và đời sống của Nhân dân. Tập trung tháo gỡ khó khăn về sản xuất, kinh doanh nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường, đất đai, vốn vay ưu đãi..., nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Ða dạng ngành hàng xuất khẩu gắn với việc tăng cường xúc tiến thương mại, giữ vững thị trường truyền thống, tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời khai thác tốt thị trường trong nước để tiêu thụ sản phẩm hàng hoá.

Thúc đẩy phát triển các ngành dịch vụ để tăng nhanh tỷ trọng trong nền kinh tế, khuyến khích phát triển các ngành dịch vụ như: dịch vụ nông nghiệp ở nông thôn, thương mại, vận tải, du lịch, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, công nghệ thông tin, tư vấn, hỗ trợ kinh doanh, chăm sóc sức khoẻ Nhân dân...

Quy hoạch và triển khai đầu tư hệ thống bến bãi để phát triển ngành dịch vụ cung ứng hậu cần vận tải gắn với đầu tư xây dựng, khai thác cảng biển và Khu Kinh tế Năm Căn, tạo điều kiện mở rộng giao thương quốc tế. 

Thực hiện đồng bộ các giải pháp cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh, nhất là các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến người dân và doanh nghiệp nhằm thu hút nguồn lực đầu tư. Tạo điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế phát triển nhanh và bền vững, vận dụng và thực hiện có hiệu quả các chính sách ưu đãi của Nhà nước để hỗ trợ sản xuất kinh doanh, phát triển thị trường. Tiếp tục lãnh đạo, tuyên truyền, phổ biến Luật Hợp tác xã sâu rộng trong các thành phần kinh tế và toàn dân; củng cố, đổi mới, phát triển các loại hình kinh tế tập thể với các hình thức đa dạng, có hiệu quả.

Thực hiện tốt quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch của tỉnh; quan tâm phát triển du lịch, nhất là du lịch sinh thái; thu hút nguồn lực đầu tư phát triển du lịch Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau, Vườn Quốc gia U Minh Hạ. Mở các chuỗi liên kết để tạo điều kiện hình thành các tour, tuyến du lịch trong vùng, cả nước, các tuyến ngoài nước trong khu vực mà tỉnh có điều kiện.

- Tăng cường liên kết phát triển kinh tế vùng: Tích cực thực hiện liên kết, hợp tác với khu vực; TP Hồ Chí Minh; vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; vùng đồng bằng sông Cửu Long; Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam và các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước tham gia đầu tư vào địa bàn tỉnh. Tham gia điều phối phát triển với các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long theo chủ trương liên kết vùng; khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện liên kết khai thác tiềm năng, lợi thế của từng vùng (vùng kinh tế biển, ven biển và vùng kinh tế nội địa), từng lĩnh vực, tạo động lực để thúc đẩy tăng trưởng của cả vùng.

- Nâng cao chất lượng hoạt động tài chính, ngân sách:

Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách tài chính của Trung ương. Tăng cường quản lý thu ngân sách Nhà nước, bảo đảm thu đúng, thu đủ theo luật định. Phấn đấu trong 5 năm thu ngân sách Nhà nước đạt 29.000 tỷ đồng. Quản lý chi ngân sách Nhà nước chặt chẽ, triệt để tiết kiệm và hiệu quả; phấn đấu chi ngân sách 5 năm khoảng 46.700 tỷ đồng, bình quân tăng 11,7%/năm; tỷ lệ cân đối thu, chi ngân sách từ 62-64%.

Phát triển và quản lý chặt chẽ các nguồn tài chính ngoài ngân sách, tạo nguồn lực để hỗ trợ các ngành, lĩnh vực cần khuyến khích phát triển; ưu tiên đầu tư cho nông nghiệp, phát triển nông thôn, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất, kinh doanh.

3- Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng và đô thị

 Tập trung đầu tư xây dựng và tạo bước đột phá về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển. Triển khai thực hiện tốt kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm (2016-2020). Tiếp tục thu hút các nguồn vốn đầu tư; vận dụng linh hoạt các cơ chế, chính sách, tạo điều kiện thuận lợi về đất đai, giải phóng mặt bằng... để thu hút đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đẩy nhanh tiến độ các dự án quan trọng về giao thông, thuỷ lợi, y tế, giáo dục, điện... Tạo điều kiện và tích cực tham gia để thực hiện các dự án lớn, có vai trò động lực cho nền kinh tế tỉnh như: cảng Hòn Khoai, Khu Kinh tế Năm Căn, đô thị Sông Ðốc, Khu Công nghiệp Khánh An, các dự án hạ tầng du lịch của Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau, Vườn Quốc gia U Minh Hạ, dịch vụ khai thác, chế biến sản phẩm biển...

Phát triển đô thị phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao chất lượng quy hoạch và quản lý quy hoạch đô thị, nông thôn; tập trung phát triển các đô thị động lực. Tạo điều kiện thúc đẩy đầu tư phát triển các thị trấn huyện lỵ đạt chuẩn đô thị. Phấn đấu đến năm 2020 đạt tỷ lệ đô thị hoá 37%. Triển khai, thực hiện tốt Chương trình Phát triển nhà ở tỉnh Cà Mau đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.

4- Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, tăng cường tiềm lực về khoa học, công nghệ

Thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo Nghị quyết Trung ương 8 (khoá XI); duy trì và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục ở các cấp học, hoàn thành phổ cập trung học phổ thông. Rà soát quy hoạch, bố trí mạng lưới trường học phù hợp với từng địa bàn, khả năng quản lý. Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên đủ số lượng, cơ cấu hợp lý, đạt chuẩn về chuyên môn, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo. Huy động các nguồn lực xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia. Ðẩy mạnh công tác phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi.

Sắp xếp, củng cố và nâng cao chất lượng các trường chuyên nghiệp; phát triển các trường phổ thông ngoài công lập ở những nơi có điều kiện; thực hiện liên kết đào tạo các ngành học phù hợp nhu cầu của tỉnh và đảm bảo chất lượng đào tạo; củng cố, nâng chất lượng hoạt động các trung tâm học tập cộng đồng; đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và đào tạo, xây dựng xã hội học tập, đa dạng hoạt động khuyến học, khuyến tài, ưu tiên phát triển giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu.

Ða dạng hoá loại hình đào tạo nghề; nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy nghề gắn với tạo việc làm, chú trọng đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đào tạo nghề trình độ cao, công nhân kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động của tỉnh.

Tập trung đào tạo phát triển nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế và gắn với nhu cầu sử dụng của tỉnh và doanh nghiệp. Có cơ chế, chính sách phù hợp đào tạo, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có đủ phẩm chất, năng lực ngang tầm nhu cầu phát triển.

Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kiện toàn tổ chức, bộ máy quản lý về khoa học - công nghệ. Tăng cường đào tạo cán bộ khoa học của tỉnh, kể cả cán bộ lãnh đạo và quản lý, gắn với thu hút và sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ để nâng cao hiệu quả nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất và đời sống trong tất cả các ngành nghề, lĩnh vực, nhất là ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp; thực hiện có hiệu quả Chương trình quốc gia “Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020”. Xây dựng và triển khai các đề tài, dự án phục vụ thiết thực các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh, nhất là những sản phẩm, hàng hoá chủ lực. Chủ động liên kết, hợp tác, mở rộng xã hội hoá các hoạt động khoa học - công nghệ, tạo điều kiện hình thành và phát triển thị trường khoa học - công nghệ. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý đo lường chất lượng và sở hữu trí tuệ.

5- Phát triển văn hoá - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân

- Văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao:

Triển khai, thực hiện Nghị quyết Trung ương 9 (khoá XI) về văn hoá, tập trung thực hiện mục tiêu xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hoá thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thông tin, truyền thông, báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh; đa dạng hoá các loại hình nghệ thuật; đầu tư xây dựng và khai thác có hiệu quả các thiết chế văn hoá, các khu di tích lịch sử.

Hoàn thành dự án phục dựng Khu Căn cứ Xứ uỷ Nam Bộ - Trung ương Cục miền Nam (cuối năm 1949 - đầu năm 1955); bảo vệ, trùng tu, tôn tạo các khu di tích lịch sử cách mạng, các công trình văn hoá vật thể, phi vật thể, các công trình văn hoá của các dân tộc, tôn giáo trên địa bàn tỉnh, gắn với phát triển du lịch. Khai thác, phát huy tốt các giá trị văn hoá truyền thống.

Tiếp tục đa dạng hoá các hoạt động thể dục thể thao quần chúng; tổ chức đào tạo có hiệu quả các tài năng thể thao thành tích cao. Triển khai thực hiện tốt chiến lược phát triển gia đình Việt Nam và chương trình hành động vì trẻ em; phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Tiếp tục thực hiện Luật Bình đẳng giới và chương trình Hành động quốc gia về sự tiến bộ của phụ nữ, phát huy vai trò của phụ nữ trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội.

- Giải quyết các vấn đề xã hội và bảo đảm an sinh xã hội:

Thực hiện đồng bộ các chủ trương, nghị quyết của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dạy nghề, giải quyết việc làm, bảo trợ xã hội, giảm nghèo bền vững và đảm bảo an sinh xã hội. Thực hiện tốt chính sách đối với người có công, đảm bảo người có công có mức sống từ trung bình trở lên. Chăm lo và phát huy vai trò người cao tuổi. Tăng cường phòng, chống các tệ nạn xã hội, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động. Giải quyết kịp thời, có hiệu quả các vấn đề xã hội bức xúc.

- Chăm sóc sức khoẻ Nhân dân:

Thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ Nhân dân và công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình. Tiếp tục đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, hiện đại hoá các trang thiết bị y tế từ tỉnh đến cơ sở, gắn với việc đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ y tế nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, tinh thần, thái độ phục vụ Nhân dân; nâng cao mức độ đạt chuẩn quốc gia ở tuyến y tế cơ sở; xây dựng, phát triển một số cơ sở y tế kỹ thuật cao theo hướng chuyên sâu, bảo đảm để mọi người dân được tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế chất lượng nhằm nâng cao sức khoẻ, thể chất và tuổi thọ Nhân dân.

Thực hiện tốt công tác y tế dự phòng, các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế; duy trì mức sinh hợp lý. Tăng cường quản lý, kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm, dược phẩm, hành nghề y tế tư nhân. Tuyên truyền, vận động Nhân dân rèn luyện nâng cao sức khoẻ, phòng, chống dịch bệnh; phấn đấu thực hiện đạt mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân.

6- Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường

Tiếp tục triển khai Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng (khoá XI) về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Trọng tâm là nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của toàn xã hội, đẩy mạnh xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường. Thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm chủ động phòng, chống sạt lở ở các đê biển, cửa biển, hạn chế tác động của triều cường, ngập lụt, xâm ngập mặn do nước biển dâng.

Kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện nội dung bảo vệ môi trường trong các quy hoạch, kế hoạch phát triển, các chương trình, dự án đầu tư. Chỉ đạo thực hiện nghiêm pháp luật về bảo vệ môi trường; kiên quyết ngăn ngừa, xử lý các hành vi gây ô nhiễm môi trường, nhất là trong các cơ sở sản xuất công nghiệp, các khu đô thị, khu dân cư nông thôn tập trung. Quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nước. Triển khai thực hiện Chương trình Bảo vệ và Phục hồi đa dạng sinh học đến năm 2020; quản lý, bảo tồn, phát triển bền vững Khu Dự trữ sinh quyển Mũi Cà Mau, Khu Ramsar. Nâng cao tính bền vững các dự án ứng phó với biến đổi khí hậu.

7- Tăng cường quốc phòng, an ninh; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội

Triển khai, thực hiện nghiêm túc các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; xây dựng nền quốc phòng, thế trận quốc phòng toàn dân gắn thế trận an ninh Nhân dân vững mạnh; gắn công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng - an ninh. Tập trung xây dựng các công trình chiến đấu, huấn luyện chiến đấu trong khu vực phòng thủ. Tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang tỉnh nhà theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lập trường chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Ðảng, Nhà nước và Nhân dân.

Tăng cường đổi mới đồng bộ, toàn diện công tác biên phòng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền biên giới biển, đảo trong tình hình mới. Nâng cao chất lượng công tác nắm, dự báo tình hình, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh làm thất bại âm mưu, ý đồ, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; bảo đảm ổn định chính trị, giữ vững chủ quyền an ninh biên giới biển, đảo; duy trì trật tự, kỷ cương và an toàn xã hội.

Tập trung thực hiện công tác giáo dục và bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh. Thường xuyên tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang về ý thức nâng cao cảnh giác cách mạng; ý thức trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh Tổ quốc; Luật Nghĩa vụ quân sự; thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội.

Tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Phát động mạnh mẽ phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Ðẩy mạnh thực hiện các giải pháp đột phá trong phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội. Thiết lập trật tự an toàn giao thông, giảm thiểu tai nạn giao thông và phòng, chống thiên tai, cháy, nổ.

8- Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế

Tăng cường công tác đối ngoại của cấp uỷ, chính quyền và các hoạt động đối ngoại Nhân dân; xúc tiến thương mại, phát triển thị trường xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài; đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, vận động cộng đồng người Cà Mau định cư ở nước ngoài đầu tư vào địa bàn tỉnh, tích cực tham gia đóng góp xây dựng quê hương. Tích cực tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, thành tựu của tỉnh ra ngoài nước. Quản lý chặt chẽ các nguồn viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ.

9- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; đẩy mạnh cải cách tư pháp

Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động Hội đồng Nhân dân các cấp, nhất là việc ban hành các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội; đẩy mạnh công tác giám sát, gắn kết giữa giám sát của Hội đồng Nhân dân với kiểm tra, giám sát của cấp uỷ Ðảng, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và giám sát của Nhân dân. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật Bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân; Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Lãnh đạo và tổ chức thành công cuộc bầu cử Quốc hội, Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Nhân dân các cấp khoá mới; nâng cao chất lượng đại biểu và đại biểu chuyên trách của Hội đồng Nhân dân các cấp phù hợp với yêu cầu chức năng, nhiệm vụ theo luật định, bảo đảm hoạt động có hiệu quả.

 Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước của Uỷ ban Nhân dân các cấp trên tất cả các lĩnh vực; chú trọng, không ngừng đổi mới nội dung, phương pháp quản lý theo hướng thiết thực, sát cơ sở, gần dân; thực hiện tốt công tác dân vận của chính quyền. Ðẩy mạnh phân cấp quản lý, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền địa phương theo hướng tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho cấp dưới và cơ sở.

Kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức các cơ quan Nhà nước theo đề án vị trí việc làm; chuẩn hoá đội ngũ cán bộ theo quy định; đổi mới tác phong, lề lối làm việc theo hướng tinh thông, khoa học, trách nhiệm, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chương trình tổng thể Cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2011-2020, nhất là cải cách thể chế, cơ cấu tổ chức cán bộ, thủ tục hành chính, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh; chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh, tạo môi trường đầu tư kinh doanh tốt hơn, đơn giản thủ tục đối với doanh nghiệp và người dân. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương và đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu về tính năng động, sáng tạo, tiên phong trong thực hiện cải cách hành chính; nâng cao năng lực, trình độ, trách nhiệm đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ; thường xuyên kiểm tra, thanh tra công vụ, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, xử lý cán bộ, công chức, viên chức tiêu cực, thiếu tinh thần trách nhiệm. Triển khai nhanh cải cách nền hành chính theo hướng dân chủ, hiện đại, trách nhiệm, chuyên nghiệp, năng động, tiến tới hoàn thiện Ðề án Chính phủ điện tử; nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh, chỉ số hành chính công cấp tỉnh.

Thực hiện tốt công tác dân tộc, công tác tôn giáo; tăng cường huy động và lồng ghép các nguồn lực để thực hiện tốt cơ chế, chính sách, chương trình đầu tư, hỗ trợ đặc thù phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội vùng đồng bào dân tộc; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống tốt đẹp của đồng bào các dân tộc, tôn giáo. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng tôn giáo theo quy định của pháp luật. Kiên quyết xử lý những hành vi lợi dụng tôn giáo, dân tộc để chia rẽ, gây rối, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Nâng cao chất lượng công tác thi đua khen thưởng, chú trọng người lao động trực tiếp. Phát động và thực hiện phong trào thi đua với nội dung thiết thực, đi vào chiều sâu, khen thưởng kịp thời, đúng thực chất, thúc đẩy hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc các giải pháp về phòng ngừa tham nhũng, lãng phí. Tập trung thanh tra, kiểm tra đối với các lĩnh vực nhạy cảm, dễ xảy ra tham nhũng; xử lý nghiêm minh các hành vi tham nhũng; xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng, lãng phí trong tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương mình trực tiếp quản lý. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Ðẩy mạnh cải cách tư pháp, tuyên truyền, triển khai thực hiện các bộ luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp. Nâng cao chất lượng điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, không để xảy ra oan sai, vi phạm tố tụng; tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đi vào chiều sâu, đẩy mạnh hoà giải ở cơ sở nhằm hạn chế mâu thuẫn, phát sinh các tranh chấp, khiếu kiện trong Nhân dân. Thực hiện tốt công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm đúng quy định của pháp luật. Nâng cao hiệu quả phối hợp hoạt động giữa các cơ quan tố tụng và chất lượng công tác giám định tư pháp.

10- Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng (khoá XI) về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”. Quan tâm củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy cán bộ của hệ thống dân vận các cấp. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách, các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh uỷ về công tác dân vận. Thực hiện có hiệu quả công tác dân vận chính quyền.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Nhân dân trong thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng tổ chức Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp vững mạnh từ cơ sở. Ðổi mới nội dung và phương thức hoạt động theo hướng rõ việc, rõ nội dung, có trọng tâm, trọng điểm, sát cơ sở, sát đối tượng, thiết thực và hiệu quả, bám sát vào nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. Tăng cường phối hợp đẩy mạnh các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, nhất là phong trào thi đua “Dân vận khéo”, xây dựng nông thôn mới. Thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội, góp ý xây dựng Ðảng, xây dựng chính quyền của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và Nhân dân.

Ðổi mới nội dung, phương thức giáo dục chính trị tư tưởng, lý tưởng cách mạng, xây dựng đạo đức, lối sống văn hoá lành mạnh cho thế hệ trẻ, tạo điều kiện để thanh - thiếu niên học tập, rèn luyện, phấn đấu, trưởng thành.

11- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng

Ðẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Ðảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) về xây dựng Ðảng. Tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng và nhân rộng các mô hình hiệu quả trong học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ở từng cấp. Các cấp uỷ thường xuyên kiểm tra, giám sát, sơ kết, rút kinh nghiệm và đề ra các giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) và Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả thiết thực.

Ðổi mới nội dung, phương thức công tác chính trị, tư tưởng theo hướng sát đối tượng, sát cơ sở, vừa có chiều rộng, vừa đi vào chiều sâu. Ðẩy mạnh tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng. Nâng cao nhận thức, bản lĩnh chính trị, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”, đặc quyền, đặc lợi, nói không đi đôi với làm và các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Chủ động nắm bắt và giải quyết có hiệu quả những vấn đề phát sinh về tư tưởng chính trị trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và Nhân dân.

Kiện toàn, nâng cao chất lượng bộ máy tổ chức trong hệ thống chính trị, các cơ quan tham mưu giúp việc của cấp uỷ. Thực hiện nghiêm nguyên tắc Ðảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý cán bộ. Nâng cao chất lượng trong thực hiện các khâu, quy trình của công tác cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị. Ðề ra chính sách tạo bước đột phá trong tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trẻ, nữ; cán bộ làm bí thư chi bộ ấp, khóm. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp uỷ, tổ chức Ðảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên; thực hiện nghiêm các nguyên tắc của Ðảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình. Thực hiện tốt công tác phát triển đảng viên, chú trọng chất lượng. Thực hiện tốt chính sách quản lý, sử dụng cán bộ, đảng viên có vấn đề lịch sử chính trị; tăng cường nắm, quản lý, xử lý vấn đề chính trị hiện nay. 

Cấp uỷ lãnh đạo, chỉ đạo, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật của Ðảng; thực hiện quy hoạch, đào tạo, luân chuyển cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát của cấp uỷ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Uỷ ban kiểm tra các cấp thực hiện tốt công tác tham mưu giúp cấp uỷ chỉ đạo và thực hiện kiểm tra, giám sát theo chức năng, nhiệm vụ. Nâng cao chất lượng các cuộc kiểm tra, giám sát; tập trung kiểm tra, giám sát những vấn đề nổi cộm, bức xúc, những lĩnh vực dễ phát sinh vi phạm; kiên quyết xử lý vi phạm sau kiểm tra, giám sát.

Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ Ðảng đối với hệ thống chính trị, không buông lỏng lãnh đạo nhưng cũng không bao biện, làm thay. Xây dựng quy chế làm việc của cấp uỷ phải xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể và cá nhân, nhất là cá nhân người đứng đầu. Ðổi mới việc ban hành, triển khai chủ trương, nghị quyết lãnh đạo của cấp uỷ; nghị quyết ban hành phải thiết thực, ngắn gọn, khả thi. Ðẩy mạnh cải cách hành chính trong Ðảng. Thường xuyên kiểm tra, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Ðảng.

IV- Nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XV Đảng bộ tỉnh

1- Tập trung xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tình trạng "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.

2- Triển khai thực hiện tốt Ðề án Tái cơ cấu kinh tế, Ðề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp và thực hiện có hiệu quả 3 đột phá chiến lược; khai thác tốt, phân bổ hợp lý các nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội; có chính sách đột phá phát triển vùng kinh tế nội địa, nhất là nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh tế khu vực hệ sinh thái mặn, hệ sinh thái ngọt; thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển vùng kinh tế ven biển và kinh tế biển, gắn với bảo vệ chủ quyền đất nước.

3- Tiếp tục phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong tình hình mới.

4- Tập trung giải quyết có hiệu quả những bức xúc của xã hội, tăng cường quản lý phát triển xã hội, đảm bảo an sinh xã hội và phúc lợi xã hội; xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, gắn với xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh.

***

Nhiệm kỳ qua, tỉnh Cà Mau vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, đạt được những kết quả khá toàn diện trên các lĩnh vực. Nhận định thời gian tới, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, còn không ít những khó khăn. Ðại hội lần thứ XV Ðảng bộ tỉnh đã khẳng định quyết tâm của Ðảng bộ và quân, dân tỉnh nhà tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, khai thác có hiệu quả tiềm năng, nguồn lực của tỉnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng bộ, hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền các cấp, tích cực vận động Nhân dân đoàn kết, chung sức, chung lòng thực hiện thắng lợi mục tiêu đưa tỉnh Cà Mau phát triển nhanh và bền vững./.

Ban Chấp Hành Đảng Bộ Tỉnh

Ý nghĩa công trình chào mừng đại hội Ðảng

Kỷ yếu Ban Chấp hành (BCH) Ðảng bộ các xã, thị trấn Năm Căn qua các nhiệm kỳ là công trình chào mừng đại hội đảng bộ các cấp trên địa bàn huyện Năm Căn, nhiệm kỳ 2025-2030. Hiện nay, các địa phương đang khẩn trương hoàn thiện đảm bảo tiến độ, tạo khí thế thi đua sôi nổi trước thềm đại hội đảng nhiệm kỳ mới.

“Chi bộ bốn tốt” - Ðộng lực thực hiện nhiệm vụ chính trị

Nhằm nâng cao vai trò hạt nhân của tổ chức đảng, nhất là ở cơ sở, huyện Phú Tân tích cực triển khai thực hiện mô hình “Chi bộ bốn tốt”, “Ðảng bộ cơ sở bốn tốt”. Qua đó, tạo động lực thúc đẩy, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị đề ra, nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng ở cơ sở, phát huy tinh thần đoàn kết, kỷ luật tốt và xây dựng cán bộ, đảng viên tốt.

Phát triển Ðảng đảm bảo cả chất và lượng

Thời gian qua, các cấp uỷ, tổ chức đảng trong toàn Ðảng bộ huyện U Minh triển khai đồng bộ nhiều giải pháp hiệu quả, qua đó, tạo chuyển biến tích cực trong công tác phát triển đảng viên, đảm bảo cả về chất và lượng.

Văn hoá và kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Tác phẩm “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, được xuất bản nhân dịp kỷ niệm 76 năm Ngày Bác Hồ ra Lời kêu gọi Thi đua ái quốc (11/6/1948-11/6/2024), 99 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6/1925-21/6/2024) và được toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta trân trọng đón nhận với những giá trị, ý nghĩa to lớn.

Sâu sát Nhân dân, nắm chặt cơ sở

Chi bộ đảng, đảng viên ở ấp/khóm là nơi trực tiếp, sâu sát với đời sống Nhân dân; là cánh tay nối liền, nối dài của Ðảng, nơi ý Ðảng - lòng dân kết tinh, hiện hữu. Vai trò của đảng viên, chi bộ đảng ở tuyến “cơ sở của cơ sở” là hết sức quan trọng đối với việc truyền tải, thực hiện chủ trương, đường lối của Ðảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ chính trị của từng địa phương. Gần dân, trọng dân, tin dân, hiểu dân, học dân và phụng sự Nhân dân là phương châm xuyên suốt, nhất quán để từng chi bộ đảng, đảng viên phát huy hết vai trò, trách nhiệm được giao phó.

Ðảng viên cao niên viết tiếp truyền thống cách mạng

Huy hiệu Ðảng là phần thưởng cao quý ghi nhận sự phấn đấu, rèn luyện, góp sức và trưởng thành của những đảng viên với Ðảng, với Tổ quốc, với Nhân dân, thực hiện tốt mọi chức trách nhiệm vụ được giao dù ở cương vị nào.

Tôn vinh cống hiến của đảng viên

Phấn khởi và tự hào, đó vừa là tâm trạng của các đảng viên Ðảng bộ huyện Phú Tân vinh dự được nhận Huy hiệu Ðảng vào dịp Quốc khánh 2/9, vừa là niềm vui chung của chi bộ nơi đảng viên sinh hoạt. Bởi, những tấm huy hiệu được trao là phần thưởng cao quý ghi nhận quá trình phấn đấu, rèn luyện, cống hiến của các đảng viên cho sự nghiệp cách mạng của Ðảng và Nhân dân.

“Chi bộ 4 tốt” - Cốt ở đảng viên

“Chi bộ 4 tốt” là mô hình cụ thể hoá tinh thần Nghị quyết số 21-NQ/TW (Nghị quyết 21), ngày 16/6/2022, của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng về “Tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới”. Tại Cà Mau, việc xây dựng “Chi bộ 4 tốt”, “Ðảng bộ cơ sở 4 tốt” đã được các cấp uỷ đảng quan tâm triển khai, tạo sự chuyển biến tích cực trong việc tăng cường sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; nâng cao hình ảnh, uy tín, vai trò của đảng viên.

4 đảng viên cao niên xã Khánh An nhận phần thưởng cao quý của Đảng

Nhân kỷ niệm 79 năm ngày Quốc khánh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945-2/9/2024), chiều 30/8, đồng chí Lê Thị Nhung, Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Phó chủ tịch thường trực HĐND tỉnh đã đến trao huy hiệu Đảng tại xã Khánh An, huyện U Minh.

Ban Thường vụ Đảng uỷ Dân Chính Đảng trao huy hiệu Đảng cho 8 đảng viên

Chiều 30/8, Ban Thường vụ Đảng uỷ Dân Chính Đảng tổ chức lễ trao huy hiệu Đảng đợt 2/9/2024 cho 8 đảng viên đang sinh hoạt tại các đảng bộ, chi bộ trực thuộc Đảng uỷ Dân Chính Đảng.