(CMO) Mãi cho đến bây giờ, dù trải qua hàng trăm năm nhưng trong cuộc sống đương đại vẫn còn dấu ấn của người lưu xứ. Đó là những làng mạc, những công trình đắp đập ngăn mặn, giữ ngọt, trồng lúa, trồng khoai, nuôi thuỷ sản; những giống cây trồng, vật nuôi, những kinh nghiệm trong việc đoán thời tiết, đoán luồng cá cho đánh bắt và những dụng cụ đánh bắt cá, tôm. Rồi những cách thức thế nào làm những món ăn mà bây giờ gọi là văn hoá ẩm thực.
Bên cạnh đó, không thể thiếu đời sống văn hoá tinh thần với hệ thống truyện kể, ca dao, dân ca, tục ngữ mang đặc thù vùng đất trong sinh hoạt văn hoá của cộng đồng. Toàn bộ những thứ ấy còn đọng lại trong cuộc sống hôm nay.
Trước hết, có lẽ đây là diễn biến tâm lý của người lưu xứ còn đọng lại qua những câu ca dao: Cà Mau, Rạch Giá thị hoá sơn trường/Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua. Hay: Xứ đâu bằng xứ Cạnh Đền/Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lềnh như bánh canh.
MH: Minh Tấn |
Chủ nhân của sông là cá sấu, chủ nhân của rừng là cọp, con người không chỗ đứng giữa đất trời này nữa. Nhưng cái thế đứng để nhìn "sấu lội”, “cọp đua" dường như là thế đứng của con người để nhìn thiên nhiên với con mắt khác: Xứ đâu thị tứ cho bằng xứ kinh cùng/Tràm xanh củi lục anh hùng thiếu chi.
Thiên nhiên hoang sơ, dữ dội, nhưng chính trong cái hoang sơ, dữ dội ấy đã hàm chứa sự giàu có, phong phú. Nếu “sấu lội”, “cọp đua” hay “muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lội lềnh như bánh canh” là đối lập, là khắc nghiệt với con người, thì “tràm xanh, củi lục” là của cải của con người. Hơn thế nữa, con người ở đây là anh hùng. Người anh hùng đó được so sánh với tràm, với củi lục. Phải chăng ông cha xưa đã chiêm nghiệm rằng: sống được, sống trong điều kiện như thế là anh hùng?
Tuy nhiên, những người đặt chân đầu tiên ở đây đã hơn một lần thốt lên: Đến đây lạ xứ lạ làng/Con chim kêu cũng sợ, con cá vẫy vùng cũng kinh. Thì ra không phải vậy. Con người không phải sợ cọp, sợ cá sấu... mà vì lạ xứ, lạ làng cho nên “chim kêu cũng sợ, con cá vẫy vùng cũng kinh”. Đây là tâm trạng sợ cô đơn của người lưu xứ, của những người “cố cùng liều thân”. Có lẽ những người đặt chân đầu tiên đến đây đã thấm thía điều ấy, nên họ hết sức thông cảm: Rồng chầu ngoài Huế/Ngựa tế Đồng Nai/Nước sông trong sao chảy lộn sông ngoài/Thương người xa xứ lạc loài đến đây.
Họ đến đây trước hết như một sự “lạc loài”, một sự rong ruổi của cuộc đời, bất công xã hội. Từ người “xa xứ lạc loài đến đây” họ ngẫm nghĩ xã hội như một nguyên nhân: Tôi ở Hòn Khoai về Hòn Đá Bạc/Tôi trương buồm chạy lạc, chạy tới Hòn Nhum/Thấy ông lão tiều phu đốn củi lum khum/Tôi hỏi ông lão, chứ não nùng này tại ai?
Một cuộc đời rong ruổi, một nguyên nhân chưa giải thích được. Rồi họ giải thích cuộc đời bằng số phận nghèo: Chiều chiều vịt nước kêu chiều/Bâng khuâng nhớ hạc chín chiều ruột đau/Ruột đau ruột thắt gan teo/Vì phận tôi nghèo, tôi mới xuống đây.
Người lưu xứ đến đây đã khái niệm được tên gọi của mình. Nghèo! Cái nghèo trong chế độ đương thời không buộc họ phải rời xứ mà nó là sự trì níu, đè nặng lên cuộc sống hằng ngày. Tước bỏ nó, con người đi mở đất, đầy nghèo khổ gian truân. Có thấy được điều ấy mới lạc quan, niềm tự hào của con người khi đi khám phá thiên nhiên.
Thực ra trong những câu: Cà Mau khỉ khọt trên cây/Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua và Xứ Thới Bình cây cao bóng mát/Sông Trèm Trẹm khúc vịnh khúc cong đã bộc lộ cái giàu có, phong phú của thiên nhiên. Nhưng đến khi con người muốn nó thành của cải thì cái giàu có ấy trở nên cụ thể hơn, có sức sống hơn: Chiều chiều quạ nhắn với diều/Cù lao ông Chưởng có nhiều cá tôm.
Cù lao ông Chưởng ở An Giang, địa danh đó được lưu truyền ở các tỉnh ĐBSCL. Đến với Cà Mau, nội dung câu ca dao phản ánh xác thực: Chiều chiều quạ nhắn với diều/Quạ về hàng đáy ăn nhiều cá tôm.
Trong hai câu trên, “quạ, diều” đã trở thành hình tượng của con người lao động lam lũ ở vùng sông nước. Khi họ tìm thấy nơi có điều kiện sinh sống “quạ nhắn với diều”, rồi “quạ về hàng đáy”, mọi cái đều rất cụ thể, sinh động, chứa đậm chất nhân sinh.
Như vậy, có thể nói ngay từ khi đặt chân lên mảnh đất cuối cùng cực Nam Tổ quốc, người Cà Mau đã hướng về thiên nhiên với sự hy vọng, tự hào sâu sắc. Họ mong muốn tìm ở thiên nhiên nơi trú chân, nơi nuôi sống thân và gia đình. Mọi sự lo sợ rồi sẽ qua đi, thiên nhiên trở thành bài ca cho cuộc sống, niềm hy vọng về cuộc sống. Thiên nhiên phong phú, vì vậy con người bắt tay chinh phục thiên nhiên một cách trân trọng, tích cực. Quá trình ấy con người không chỉ tạo nên những xóm làng, ruộng rẫy, mà còn tạo ra những giá trị văn hoá. Qua những xóm thôn còn mang dấu ấn của thời mở đất, còn đó một hệ thống truyện kể, những ngôi miếu, mái đình của một thời con người cầu mong “mưa thuận, gió hoà, làm ăn sung túc”. Ở đó, tiếng cười vui qua câu chuyện “tiếu lâm” và có khi là những câu hò, câu hát vang dài theo những con sông./.
Chung Thuỷ