Tại hội thảo “Bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật đờn ca tài tử (ĐCTT) Nam bộ” trong khuôn khổ Festival ĐCTT quốc gia lần I - Bạc Liêu 2014 vừa qua, một trong những nội dung được đề cập nhiều đó là việc đưa nghệ thuật ĐCTT vào phục vụ du lịch.
![]() |
Quảng bá đặc sản văn hóa ĐCTT phục vụ du lịch. Ảnh: M.Đ |
Còn GS-TS khoa học Tô Ngọc Thanh khi đề cập đến thực trạng đưa ĐCTT vào phục vụ du lịch, ông lại kể một kỷ niệm… buồn, nghe xong thì thật sự là rất đáng buồn!
Đó là câu chuyện xảy ra trong một quán ẩm thực vườn có một nhóm nhạc tài tử phục vụ du khách. Buổi ấy, có 2 nhóm khách vào ăn uống, một nhóm là những thanh niên người Việt Nam và một tốp là du khách nước ngoài. Sau khi bày thức ăn trên bàn các thực khách, chủ vườn vẫy tay ra hiệu các nhạc công phục vụ. Tiếng nhạc vang lên không ngừng cho đến khi hai đoàn khách ra về, hơn một tiếng đồng hồ họ đã trình diễn nhiều bản đờn với tất cả tâm huyết, vậy mà điều đáng buồn là cả hai nhóm khách không ai chú ý đến các nhạc công đã phải biểu diễn trong thời tiết nóng nực, mồ hôi nhỏ xuống từ chiếc khăn đóng trên đầu chảy xuống ướt đẫm mặt... Đám thực khách lâu lâu hô lên: “Một, hai, ba, dô, dô...”. Họ chỉ chú ý là khi nữ ca sĩ bắt đầu hát “Từ là từ phu tướng…” bằng hành động gào to: “Hai, ba, dô, mừng ca sĩ”!? Bữa tiệc kết thúc, nhóm khách Việt làm ồn kéo nhau về không mảy may cảm ơn buổi biểu diễn. Nhóm thực khách nước ngoài thì vây quanh các nhạc công, xem nhạc cụ, một người lấy hai chiếc quạt đưa cho các nhạc công để xua tan cái nóng, rồi rút trong ví tờ 50 đô la đưa cho một nhạc công đại diện với lời cảm ơn “Thank you so much!”. Khi đoàn khách kéo đi, một anh hướng dẫn viên (người dẫn đoàn khách vào) đến đòi lại tờ giấy 50 đô la, với lý do tiền thù lao của nhạc công thì đã có chủ vườn trả với giá 20.000 đồng mỗi nhạc công, tiền boa của khách phải đưa lại cho hướng dẫn viên. Tuy nhiên, sau tranh cãi, do phải dẫn khách đi nên vị hướng dẫn viên… chịu thua!
GS-TS khoa học Tô Ngọc Thanh không phân tích vì sao ông cảm thấy buồn qua lần chứng kiến ĐCTT phục vụ du khách ấy, nhưng nếu ai đã hiểu và yêu giá trị nghệ thuật của ĐCTT thì tự khắc sẽ biết buồn! Chúng ta buồn vì người ta đem một dòng nhạc sang trọng, bác học, tinh tế để thay cho loại nhạc rẻ tiền trong các tiệm ăn ven đường. Buồn vì người ta đối xử với các nhạc công đã phải đem tài năng thăng hoa, đem những ngón đờn gan ruột phải tập luyện bao năm ròng để phục vụ những kẻ thô lậu, để cuối cùng nhận được một thù lao “quá bèo”. Riêng nỗi buồn lớn nhất của vị GS-TS này là chúng ta có một cơ quan cấp bộ, trong đó có Cục Di sản hùng hậu với đội ngũ cán bộ bằng cấp đầy mình, có một Tổng cục Du lịch giàu có và không kém phần đồ sộ; vậy mà sau gần chục năm sáp nhập vẫn không có một điều lệ cho sự phối hợp cụ thể giữa hai Cục, mà trong đó, di sản văn hóa phải được tôn trọng, được coi là thứ hàng hóa đặc biệt và đặc biệt hơn nữa, cho dù được khai thác thế nào thì cái “nhân cách văn hóa” của nó vẫn phải được bảo vệ, nếu không nói là phải được tôn trọng hết mức…
Từ những câu chuyện trải nghiệm thực tế trên của các vị học giả, cho thấy đưa ĐCTT vào phục vụ du lịch, một nhiệm vụ còn lắm đa đoan, cần nhiều trăn trở nếu chúng ta muốn quảng bá “đặc sản văn hóa” trên nền tảng gìn giữ giá trị di sản văn hóa! Và cách đưa ĐCTT vào phục vụ du lịch như thế nào để đạt được yêu cầu đó, có thể phải có những hội thảo khoa học chuyên sâu hơn nữa để bàn đến nơi đến chốn.
CẨM THÚY