Thứ ba, 4-11-25 11:59:54
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Đồng bào dân tộc thiểu số ở Bạc Liêu: “Giữ lửa” cho nghề truyền thống

Báo Cà Mau

Được ví là “xứ cơ cầu” của phương Nam, Bạc Liêu đã trở thành chốn dừng chân của nhiều dân tộc anh em trên hành trình khám phá miền đất mới. Trong đó, dân tộc Khmer và Hoa có cư dân đông đúc nhất trong “đại gia đình” dân tộc thiểu số ở Bạc Liêu. Suốt bước đường an cư lạc nghiệp đã qua, họ đã chung tay kiến thiết cho Bạc Liêu những sắc màu văn hóa độc đáo. Điển hình là cách họ trân trọng, “giữ lửa” nghề truyền thống của dân tộc mình…

MỘC MẠC BÚN GẠO KHMER
Mấy năm trước, nghề làm bún gạo ở ấp Bà Gồng (thị trấn Ngan Dừa, huyện Hồng Dân) vẫn còn xôm tụ. Cái xóm chỉ có vài chục hộ đồng bào dân tộc Khmer mà nhà nào cũng làm bún. Một ký bún có vài ngàn đồng nên nhiều người hay bảo, làm bún là “nghề lượm bạc cắc”. Ấy vậy mà, cái nghề này đã nuôi sống biết bao gia đình, nhiều nhà còn khá lên nhờ cọng bún. Vì được làm bằng một thứ nguyên liệu duy nhất là gạo cứng cơm, nên bún gạo mộc mạc như người dân phum sóc. Bún Bà Gồng được gần xa biết đến vì có độ dẻo, dai, ngọt... dần dần hình thành nên thương hiệu làng bún gạo.   
Trở lại Bà Gồng lần này, tôi thật sự ngỡ ngàng vì nhiều lò bún đã “cửa đóng then cài”. Tôi cảm thấy chạnh lòng vì không được chứng kiến hình ảnh những phụ nữ Khmer lui cui bên chái bếp đỏ lửa trổ tài nhào bột, ép bún, bắt bún… Giờ đây, ở Bà Gồng ít thấy những làn khói nghi ngút bay xuyên qua vách lá, cái âm thanh rột rột quen thuộc khi chiếc cối đá xay gạo cũng vắng hơn.
Hiện, trong xóm chỉ còn nhà bà Danh Thị Lệ giữ nghề làm bún gạo. Nguyên do là nghề này rất cực, thu nhập lại không đủ sống như trước… nên nhiều gia đình buộc lòng phải “treo nồi”. Trong cái chái bếp cũ rộng chừng 4m2, các thành viên gia đình bà Lệ thoăn thoắt thực hiện những công đoạn: xay gạo, nhào bột, trụng bột, ép bún… Lúc này, từ chiếc khuôn, những sợi bún trắng từ từ được ép ra lọt thẳng xuống nồi nước đang sôi ùng ục. Rồi bà Lệ lấy chiếc ca múc nước lạnh châm vào để điều tiết nhiệt độ trong nồi. Thấy tôi tỏ vẻ hiếu kỳ, bà Lệ bật mí bí quyết: “Khi bún ép ra sẽ được ngâm mình trong nước sôi. Tuy nhiên, nước phải đủ độ nóng thì mới được, nhưng không được quá nóng vì có thể làm sơi bún bị chai”. 
Bà Lệ hồi tưởng: “Hồi đó, ấp Bà Gồng nhộn nhịp nghề làm bún lắm. Khi mặt trời chưa thức giấc là năm, ba nhà xúm lại chong đèn dầu làm bún vì không có lò riêng. Rồi mẹ dạy con, bà chỉ cho cháu cách ngâm gạo, nhào bột, bắt lọn bún đẹp ra sao. Dù đã được gìn giữ hơn 1 thế kỷ nhưng giờ đây, nghề này thu nhập “meo” quá nên bà con không đành nhưng phải bỏ nghề”.
Bà Lệ còn kể kỷ niệm về mẻ bún đầu tiên làm phụ mẹ. Khi đó, các chị em của bà ríu rít xin mẹ mỗi người một lọn bún bỏ vào chén, rồi chạy xuống dưới bếp xịt thêm nước tương. Chẳng có thịt, tép hay rau, chén bún ngày ấy đã được ăn một cách ngon lành như thế. Cũng vì tự hào về nghề truyền thống của cha ông mà bà Lệ quyết không để lò bún “tắt lửa” và sẽ truyền lưu cái “vốn quý” này lại cho các con của mình.

* Bà Danh Thị Lệ (ấp Bà Gồng, thị trấn Ngan Dừa, huyện Hồng Dân) trong một công đoạn làm bún gạo.
* Nghề làm tương của người Hoa ở Bạc Liêu. Ảnh: H.T

ĐẬM ĐÀ TƯƠNG NGƯỜI HOA
Đến với mảnh đất Bạc Liêu hiền hòa, hành trang được người Hoa mang theo là sự cần cù, khéo léo, giỏi giang trong chuyện mua bán. Trong cuộc sinh kế ở đất khách, người Hoa luôn tự hào và mong muốn mang bản sắc văn hóa dân tộc được lưu truyền và phát huy. Việc phát triển nghề làm tương là một minh chứng.
Trưa một ngày tháng 10, tôi lấy xe máy rảo một vòng nội ô thành phố để tìm lò sản xuất tương. Đến đường Nguyễn Thị Minh Khai (phường 2, TP. Bạc Liêu), từ đằng xa, tôi đã trông thấy những chiếc khạp tương của lò bà Trần Thị Út. Lúc này, gió mang theo hương thơm ngào ngạt của tương xông thẳng vào mũi làm tôi tò mò hơn về nghề truyền thống của người Hoa. Đến nơi, trước mắt tôi là hàng trăm chiếc khạp tương đủ kích cỡ được bày kín cả sân. Trong cái nắng oi ả, những người phụ nữ đội nón lá đi lại kiểm tra tình trạng tiến triển của từng khạp tương. Do thời gian bắt đầu làm khác nhau nên mỗi khạp tương có màu sắc, mùi và vị cũng khác nhau.
Bà Út cho hay, công đoạn nào cũng quan trọng như nhau, quyết định đến chất lượng thành phẩm. Đậu nành sau khi loại bỏ những tạp chất sẽ được ngâm nước nóng rồi cho vào lò hấp. Đến khi đủ độ mềm, đậu được trộn với bột mì, đem đi ủ trong khoảng một tuần để cho ra meo. Tiếp đó là rửa lại bằng nước lạnh rồi cho vào khạp ngâm với nước muối. Trong thời gian hạt đậu “ngậm” nước muối nếu nắng tốt thì sẽ có màu đen, đỏ đậm. Đến đây, hạt đậu được vớt ra ngâm với nước đường (đường mật, đường mía) sẽ trở thành tương hột. Còn phần nước đậu đem hòa chung với nước đường và các loại gia vị sẽ cho ra xì yếu (nước tương). Dù là loại gia vị đặc trưng của văn hóa ẩm thực Trung Hoa, song xì yếu đã trở thành thứ nước chấm quen thuộc trong mỗi bữa cơm gia đình của người Bạc Liêu. Còn tương hột đem đi xào tỏi, hành lá và nêm chút gia vị là “ngon bá phát”.
Khi mới đặt chân đến Bạc Liêu, tài sản lớn nhất mà cha mẹ bà Út mang theo chỉ có chiếc giỏ đệm đựng quần áo. Từ một người đi làm thuê cho các lò tương, cha của bà đã tích lũy kinh nghiệm và vốn liếng để khởi đầu cơ nghiệp. Cũng chính điều đó đã luôn nhắc nhở bà, làm tương là nghề gia truyền, mà đã là gia truyền thì không thể thất truyền. “Hồi còn nhỏ, tôi thường theo cha ra sân thăm nom từng khạp tương. Tôi vẫn nhớ như in hình ảnh người cha với tấm lưng trần, đầu đội chiếc nón Tàu chỉ dẫn tôi các công đoạn làm tương ngon… Chính hương vị đậm đà của tương đã nuôi tôi khôn lớn. Có thể nói, hạnh phúc gia đình và tuổi thơ tôi đã được kết tinh, lưu giữ với nghề này”, bà Út chia sẻ.
Không đơn thuần là cái nghề để mưu sinh, nghề làm bún gạo của người Khmer hay nghề làm tương của người Hoa đã trở thành “hồn quê”, những gì thuộc về bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc.
HỮU THỌ

Nét đặc sắc của tín ngưỡng thờ Bà Thiên Hậu ở Cà Mau

Trong dòng chảy văn hoá tại vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc, tín ngưỡng thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu (còn gọi là Bà Thiên Hậu) của cộng đồng người Hoa đã trở thành một nét sinh hoạt tâm linh đặc sắc, góp phần quan trọng trong việc định hình bản sắc văn hóa Cà Mau. Tín ngưỡng này, với tâm điểm là Lễ hội Vía Bà Thiên Hậu, không chỉ là nơi gửi gắm ước vọng an lành mà còn là minh chứng sống động cho sự giao thoa văn hóa các dân tộc Kinh – Khmer – Hoa tại địa phương.

“Mong đợi… ngày sếu trở về”

Vừa qua, tại Ðường Sách TP Hồ Chí Minh (đường Nguyễn Văn Bình, phường Sài Gòn), diễn ra Lễ khai mạc triển lãm và giới thiệu sách ảnh “Sếu đầu đỏ”, với chủ đề “Mong đợi... ngày sếu trở về”, của tác giả - Nghệ sĩ Nhiếp ảnh (NSNA) Nguyễn Trường Sinh.

Bất khuất Nọc Nạng

Có dịp về Cà Mau, du khách hãy ghé qua Di tích Quốc gia Nọc Nạng tại phường Giá Rai, sẽ được nghe kể về trận chiến đẫm máu của gia đình Mười Chức để bảo vệ hạt lúa, thửa ruộng quê hương năm 1928. Ðã gần thế kỷ trôi qua, tinh thần bất khuất trước kẻ thù của những nông dân chất phác nhưng mang khí phách anh hùng mãi là niềm tự hào của xứ sở.

Tiềm năng du lịch văn hoá từ ngôi chùa cổ

Toạ lạc tại ấp Đường Đào, xã Hồ Thị Kỷ, chùa Rạch Giồng (chùa Serymengcol) là một trong những ngôi chùa Khmer Nam tông có lịch sử lâu đời ở tỉnh Cà Mau. Trải qua hơn 230 năm hình thành và phát triển, ngôi chùa không chỉ là trung tâm tín ngưỡng của đồng bào Khmer, mà còn là nơi lưu giữ những giá trị đặc sắc về văn hoá, kiến trúc và nghệ thuật dân gian Nam Bộ.

Về miền biên viễn

Anh Nguyễn Văn Huy vốn mê nhiếp ảnh từ nhỏ, thầm ấp ủ ước mơ sắm được chiếc máy ảnh cho riêng mình. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, anh chưa thể thực hiện đam mê này. Mãi đến năm 2020, ở tuổi gần 50, anh mới bắt đầu chạm vào nhiếp ảnh.

Vùng đất của những lễ hội và di sản văn hoá

Cùng đoàn kết, cộng cư lâu đời trên mảnh đất Cà Mau, 3 dân tộc Kinh - Khmer - Hoa anh em đã kiến tạo cho quê hương cực Nam Tổ quốc nền văn hoá đậm đà bản sắc, đa dạng và độc đáo, vun đắp nền tảng tinh thần xã hội vững chắc, khơi dậy sức mạnh nội sinh để Cà Mau vững bước trên hành trình mới - hành trình cùng cả nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

“Cà Mau - Dấu ấn thời đại” - Rực rỡ chương trình nghệ thuật chào mừng thành công Đại hội  

Tối 18/10, tại Quảng trường Hùng Vương (phường Bạc Liêu), Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức chương trình nghệ thuật đặc biệt chào mừng thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Cà Mau lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030 (Đại hội), với chủ đề “Cà Mau dấu ấn thời đại”.

Khánh thành Di tích Chiến thắng Đầm Dơi - Cái Nước - Chà Là

Sáng 15/10, Di tích Chiến thắng Đầm Dơi - Cái Nước - Chà Là chính thức được khánh thành. Đây là một trong 11 công trình, dự án chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Cà Mau lần thứ I.

Truyền dạy nghệ thuật Khmer và Hoa cho hơn 100 học viên

Sáng 15/10, hơn 100 học viên là nghệ nhân, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số cùng người Khmer và người Hoa sinh sống tại các xã, phường có điểm du lịch trên địa bàn tỉnh tham dự lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng truyền dạy nghệ thuật cổ truyền do Sở VHTT&DL tỉnh phối hợp với Trường Đại học Bạc Liêu tổ chức.

Trang nghiêm Đại lễ Dâng y Kathina năm 2025

Sáng 12/10, tại Chùa Rạch Giồng (ấp Đường Đào, xã Hồ Thị Kỷ) long trọng diễn ra Đại lễ Dâng y Kathina năm 2025. Đây là một trong những nghi lễ quan trọng của Phật giáo Nam tông Khmer, mang đậm giá trị văn hóa tâm linh, thể hiện lòng tôn kính và tri ân sâu sắc của phật tử đối với chư tăng sau ba tháng an cư kiết hạ.