(CMO) Trong 3 vai trục cốt của sân khấu cải lương là: - Thương (mùi) - Hài - Độc… thì soạn giả khai thác vai hài để phản ánh mặt trái của xã hội, tương đối dễ dàng và ăn khách nhất.
Dân Việt Nam ta có thói quen là hay cười, có thể nói là cái gì cũng có thể cười, chẳng hạn: cười vui đùa, cười hài hước, cười nịnh hót, cười dê, cười chọc quê, cười cầu tài… Nhưng tựu trung cái cười nhằm hai chủ đích: Đó là cười vui tươi lạc quan và cười phê phán đã kích.
Ảnh minh họa (Vở cải lương Tô Ánh Nguyệt). |
Sân khấu cải lương là sân khấu Bi và Hài, hai nội dung nầy được tạo ấn tượng bằng 2 mặt nạ, “logo” luôn được vẽ trên “banner” trước rạp cải lương, đó là hai mặt nạ cười và khóc và ở miền Nam, các đoàn cải lương từ đại ban, trung ban, thậm chí đến các gánh hát ở làng, xã, vai kép hài luôn luôn được chú ý thứ hai sau vai kép mùi, đào mùi.
Sân khấu thoại kịch cũng khai thác khía cạnh hài một cách triệt để, nhưng không phổ thông và đại chúng bằng sân khấu cải lương.
Trong số nghệ sĩ hài trên sân khấu cải lương thời trước có nghệ sĩ Ba Vân được xem như “bậc thầy”. sau này nhiều nghệ sĩ hài xuất hiện ngày càng nhiều như: Văn Chung, Bảo Quốc, Thanh Nam…
Nghệ sĩ hài nói chung và kép hài nói riêng dù ở vai nào trong tuồng cải lương, cũng đều được khán giả thương yêu, quý mến, vì họ thể hiện vai trò trung hiếu tiết nghĩa, chân thật, thuỷ chung. Nói chung là họ đóng vai chính diện trong đạo lý Việt Nam.
Từ lúc cải lương có mặt đến nay, các nghệ sĩ hài đã cùng với những nghệ sĩ mùi, độc, lẳng… xây dựng nền nghệ thuật cải lương lên đến “đỉnh vinh quang” của nghệ thuật cải lương Việt Nam nói chung, hiện đang chựng lại trước sự phát triển của phim ảnh, video và truyền hình. Các nhà làm nghệ thuật đang chuyển dần hình thức trình diễn trên các sân khấu nhỏ, các tụ điểm giải trí, các quán ăn, uống cổ nhạc. Ngoài ra, có một loại hình phát triển mạnh và tiềm tàng, đó là đờn ca tài tử, đang góp phần bảo tồn cổ nhạc miền Nam và một bộ phận lớn khán giả Việt Nam vẫn còn mến mộ cải lương, mến mộ nghệ sĩ hài.
Sân khấu cải lương là loại hình nghệ thuật “Hiện thực xã hội” phản ánh lịch sử và cuộc sống của Nhân dân ta. Tuỳ hoàn cảnh không gian, thời gian và do trình độ soạn giả hay khán giả mà mức độ, liều lượng và sự phản ánh khác nhau. Thời Pháp thuộc, sân khấu cải lương phải mượn tuồng tích của Tàu để nói lên nỗi lòng của người dân Nam kỳ. Nhưng từ khi có phong trào chữ Quốc Ngữ, các nhà tân học soạn sách về phong tục, tập quán, lịch sử dân tộc. Sau những năm 30, phong trào đấu tranh của dân tộc đã được khắc hoạ, được đưa lên sân khấu và vai trò của nghệ sĩ hài cũng được phát huy một cách đúng mức, tạo cái cười sâu lắng, thâm thuý và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng khán giả. Có thể nói nghệ thuật hài, nghệ sĩ hài trên sân khấu nói chung và sân khấu cải lương nói riêng là hết sức quan trọng./.
H.D (sưu tầm và biên soạn)