ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 9-2-25 09:09:44
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Kỷ niệm 68 năm ngày Thương binh – Liệt sĩ (27/7/1947-27/7/2015): Có một tượng đài Mẹ trong các ca khúc cách mạng

Báo Cà Mau Đã 68 năm trôi qua, kể từ ngày 27/7/1947, hằng năm, cứ đến ngày này, những nén tâm nhang của bao thế hệ người Việt lại được thắp lên thành kính khắp các nghĩa trang, đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ.

Đã 68 năm trôi qua, kể từ ngày 27/7/1947, hằng năm, cứ đến ngày này, những nén tâm nhang của bao thế hệ người Việt lại được thắp lên thành kính khắp các nghĩa trang, đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ. Truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta lại được cụ thể hoá bằng những hành động ý nghĩa đối với những người lính mang thương tích trở về sau chiến tranh. Và trong ngày lễ kỷ niệm đó, có một tượng đài vĩ đại không thể không nhắc tới đó là Mẹ - một phần của lịch sử bi tráng, đau thương; làm nên bản trường ca bất tử, đầy kiêu hãnh tự hào, minh chứng cho sự trường tồn, bất diệt của dân tộc.

Gần 20 năm sau ngày đất nước thống nhất, năm 1994, Nhà nước ra pháp lệnh phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Và trong suốt dặm dài lịch sử đấu tranh của lớp lớp cha anh, hình tượng Mẹ đã tạc vào dáng đứng của Tổ quốc, đã đi vào các tác phẩm văn học - nghệ thuật một cách tự nhiên, dung dị mà sinh động, sáng ngời.

MH: MT

Mỗi bài thơ, mỗi bản nhạc viết về Mẹ đều đẹp, đều sang trọng, chất phác và đầy day dứt. Ðể chỉ dẫu một lần nghe qua, không ai có thể giấu được xúc động, bồi hồi.

Ðó là chân dung một người mẹ cụ thể, đằng đẵng chờ chồng ròng rã suốt 20 năm: “Cả cuộc đời cha đi bộ đội/ Quà về cho mẹ là mái tóc pha sương/ Và những vết thương trên ngực cha/ Khi trở gió lại đau nhức nhối…” để nhận về món quà hội ngộ: “Chiếc ba lô gió sương đã gội/ Gia tài cha tặng mẹ chỉ thế thôi…”. Trong suốt những tháng năm chiến tranh biền biệt ấy, riêng mẹ phải chịu bao gian khổ, thiệt thòi mà không một lời than vãn: “Hai mươi năm ngày mẹ cưới/ Ðến hôm nay sống đời vợ chồng/ Hai mươi năm… mẹ nuôi con một mình”. Vậy nên, mẹ hiển nhiên là một biểu tượng cao quý để mỗi đứa con ngợi ca và muốn tìm về để nương náu sau những ưu phiền, va vấp, là một bờ vai rộng lớn, bao dung cho con dựa vào: “Con chỉ tìm về với mẹ thôi/ Trong lòng mẹ bát ngát biển khơi…” (Mẹ - Phan Long, phổ thơ Ðoàn Ngọc Thu).

Sẽ không có gì ngạc nhiên khi các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ dành cho Mẹ nhiều tình cảm đến vậy, và khắc hoạ tạc thành một chân dung Mẹ nhiều mất mát, hy sinh mà đẹp lộng lẫy đến như thế. Bởi những cuộc trường chinh của dân tộc đau thương này đã lấy đi của mẹ biết bao điều quý giá mà không gì bù đắp nổi: “Nước mắt mẹ không còn/Vì khóc những đứa con/ Lần lượt ra đi, đi mãi mãi…” và dẫu chiến tranh đã lùi xa, “Vết thương trên thịt da đã lành theo năm tháng/ Nhưng vết thương lòng, mẹ vẫn còn nặng mang…”. Chỉ với “Người mẹ của tôi”, Nhạc sĩ Xuân Hồng đã nói thay triệu triệu người con đất Việt niềm thương cảm lớn lao cùng lòng biết ơn vô hạn những người mẹ đã rứt ruột hiến dâng những đứa con cho Tổ quốc mình. Ðể từ đó, các thế hệ lớn lên trong hoà bình biết trải lòng mình ra san sẻ, tri ân, biết sống có ích hơn, xứng đáng hơn với những hy sinh của mẹ: “Mẹ Việt Nam ơi, mẹ Việt Nam ơi/ Cho con xin chia sớt nỗi buồn/ Cho con xin xẻ đôi bát cơm/ Cho con hôn đôi mắt mỏi mòn/ Cho con soi lại bóng hình con…/ Mẹ Việt Nam ơi, mẹ Việt Nam ơi/Xin cám ơn người, người mẹ của tôi”.

Mẹ nhân từ, Mẹ bao dung và giàu đức hy sinh, nhận về mình hết thảy những gian nan, thiệt thòi để thành huyền thoại, những huyền thoại sống đáng ngưỡng vọng: “Mẹ về đứng dưới mưa/ Che đàn con nằm ngủ/ Canh từng bước chân thù/ Mẹ ngồi dưới cơn mưa…”. Mẹ trong “Huyền thoại mẹ” của Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã hoá thân thành một biểu tượng chung: mẹ Tổ quốc. Ðó là người mẹ của hàng ngàn đứa con chiến sĩ, đầy quả cảm, can trường, mưu lược: “Mẹ lội qua con suối/ Dưới mưa bom không ngại/ Mẹ nhẹ nhàng đưa lối/ Tiễn con qua núi đồi”, là bóng mát cho lớp lớp đàn con cách mạng nương nhờ, để chiến đấu và tìm về như một chốn bình an: “Mẹ là nước chứa chan/ Trôi dùm con phiền muộn/ Cho đời mãi trong lành/Mẹ chìm dưới gian nan”.

Lật lại từng trang sử bi hùng của dân tộc, đâu đâu cũng thấp thoáng dáng dấp Mẹ. Mẹ đã đồng hành cùng dân tộc trên muôn cuộc trường chinh. Trong số đó, có những người mẹ “may mắn”, được đón những đứa con trở về dù chỉ là nắm tro cốt, chiếc ba lô, cuốn nhật ký. Có những người mẹ phải gánh chịu tột cùng đau thương khi dâng tặng đứa con mình cho Tổ quốc mà vĩnh viễn không nhìn thấy hình hài, để rồi một đời khắc khoải nhớ mong, hy vọng, đến khi nhắm mắt vẫn còn đau đáu...

Chúng ta đã có những tượng đài của Mẹ Thứ, Mẹ Suốt như những minh chứng sống động của lịch sử, là đại diện tiêu biểu cho hàng vạn người Mẹ Việt Nam anh hùng. Tổ quốc sẽ đời đời khắc ghi công ơn trời biển của Mẹ, dẫu những việc làm và hành động của thế hệ hôm nay chưa thể đền đáp xứng đáng với những đóng góp và hy sinh của Người. Nhưng có một điều chắc chắn rằng, lòng thành kính sẽ mãi mãi tròn đầy, lòng biết ơn sẽ luôn khắc vào tâm khảm đến mãi muôn sau của triệu triệu người con đất Việt.

Khúc tráng ca tháng Bảy hào hùng, đầy tự hào, kiêu hãnh hằng năm vẫn đều đặn được cất lên đã lay động đến tận cùng cảm xúc của thế hệ hôm nay: “Hát về những người mẹ Việt Nam, hát mừng những người mẹ anh hùng/ Ðời dâng hiến giống nòi, mẹ sống giữa gian lao/ Vì đất nước hy sinh cả cuộc đời.../ Nhìn mái tóc mẹ bạc phơ, và ánh mắt mẹ như mơ/ Là biết mấy chờ mong mỏi mòn/ Từng đứa con ra đi không bao giờ trở lại…”.

Bằng xúc cảm chân thành của một người lính, Nhạc sĩ An Thuyên với ca khúc “Hát về Mẹ Việt Nam anh hùng” đã khái quát được một cách đủ đầy, trọn vẹn một chân dung Mẹ Việt Nam, sừng sững bao la như một tượng đài vĩ đại nhất của dân tộc: “Mẹ đã có ngàn đứa con, Mẹ đã có cả nước non/ Mẹ mãi mãi cùng con trên đường dài/ Núi sông hôm nay biết ơn người mẹ hiền…”, để muôn đời mẹ luôn gần gũi, chở che chúng con: “Thoả những nỗi sầu đau tháng ngày/ Và chúng con hôm nay như ùa vào lòng mẹ/ Lại nghe hát ru con bên nôi, Mẹ lại kể câu chuyện ngày xưa/ Mẹ đẹp mãi, Mẹ hát cùng con…”.

 Khi xem những thước phim tài liệu về Bà mẹ Việt Nam anh hùng những ngày tháng Bảy, tôi ít khi ngăn được nước mắt. Ở đó, hình ảnh những người mẹ hồn hậu, chất phác lại hiện ra: nhỏ bé, gầy guộc, tóc bạc, lưng còng, mắt mờ vẫn ôm chặt trong lòng và run run lau di ảnh hay tấm bằng Tổ quốc ghi công của người con liệt sĩ.

Sẽ thật khó để liệt kê hết các tác phẩm âm nhạc viết về Mẹ, ngợi ca Mẹ trong khuôn khổ một bài viết. Cũng như thật khó để kể hết công ơn, đức hy sinh vô bờ bến của hàng vạn Bà mẹ Việt Nam anh hùng trên mảnh đất đau thương nhưng quật khởi này. Vậy nên, người viết xin lại được mượn lời của Nhạc sĩ An Thuyên để khép lại thông điệp tháng Bảy như một lời tri ân thành kính nhất:“Trọn tình nước non, Mẹ Việt Nam anh hùng/ Tự hào chúng con có Mẹ Việt Nam anh hùng”./.

Ngô Thế Lâm

Ba ông già tuổi tỵ

Ðó là ba ông già cùng làm ở Xưởng Quân giới (XQG) Cà Mau thời kháng chiến chống Mỹ. Nói về XQG này thì những người cùng thời, tham gia kháng chiến ở Cà Mau, hầu như ai cũng biết. Họ hay gọi là xưởng ông Ba Thợ Rèn (thường gọi là Ba Lò Rèn), vì ông Ba Thợ Rèn (Nguyễn Trung Thành) là người chịu trách nhiệm lập xưởng (đầu năm 1960) và rất nổi tiếng với việc sản xuất đạn pháo lăn-xà-bom, được tuyên dương anh hùng ngay đợt đầu tiên trong kháng chiến chống Mỹ (năm 1965); xưởng cũng hai lần được tuyên dương anh hùng.

Đi B

Nhà Bác sĩ Nguyễn Văn Thể nằm trên đường Hoàng Diệu, Phường 2, TP Cà Mau. Gian trước dành một khoảng khiêm tốn làm phòng mạch, thỉnh thoảng có vài bệnh nhân quen tới khám. Kế trong là bàn tiếp khách. Khắp phòng treo khá nhiều tranh ảnh nghệ thuật. Một cây đàn trên giá. Khi không có bệnh nhân thì ông thường ôm đàn, phong cách rất nghệ sĩ, và ông cũng thích giao du với giới văn nghệ sĩ Cà Mau.

Những lá thư còn lại

Tự nhận mình có viết thư, biết cảm nhận cái nghĩa, cái tình qua những bức thư ấy, một thời là công cụ giao lưu tình cảm gia đình, đồng đội, bạn bè, có khi là cánh én báo hiệu tình yêu nảy nở. Còn vì một tiếc nuối khác, chiến tranh đã kết thúc 50 năm, sứ mệnh của những lá thư đó cũng đã chấm dứt vai trò cầu nối của mình, những lá thư còn được giữ lại như một kỷ vật quý báu, nếu được xếp ở một góc nhỏ trong bảo tàng, chỉ những chữ đề “Con gái thương yêu của mẹ"; "Anh Chín kính mến"; "Em thân yêu...” người xem dễ chạm vào xúc động, bâng khuâng.

Ăn Tết ở làng rừng

Tôi đang mở trường tư thục, dạy trên 150 học trò. Bí thư Chi bộ xã Lương Hoà là đồng chí Tư Tài, đem nghị quyết Tỉnh uỷ Bến Tre rút tôi về Ban Văn nghệ tỉnh. Chưa kịp thu xếp đi, thì má tôi (bà Hồ Thị Luỹ) ở Cà Mau qua tới. Má tôi chẻ trái chuối xiêm ra, đưa cho tôi lá thư ngắn của anh Hai Thống (Trần Hữu Vịnh, Bí thư xã Khánh Bình Tây, sau này là Phó bí thư Tỉnh uỷ Minh Hải) kèm theo mấy lời chú Chín Thép, Uỷ viên Thường vụ xã (viết chung ý là “Đám giỗ làm lớn cúng ông bà, chú phải về quê nhà để cúng ông bà báo hiếu”).

Về địa chỉ đỏ...

Những ngày giáp Tết, lực lượng đoàn viên, thanh niên Công an tỉnh Cà Mau có chuyến về nguồn thăm các di tích lịch sử tiêu biểu

Miền nhớ thiêng liêng

Chuỗi hoạt động Kỷ niệm 70 năm Sự kiện tập kết ra Bắc diễn ra trang trọng, ý nghĩa trên đất Cà Mau. Ngược miền ký ức, những cán bộ, chiến sĩ, học sinh, đồng bào miền Nam như được sống lại giai đoạn thiêng liêng của cuộc chuyển quân lịch sử. Họ gặp lại nhau, cảm xúc dâng trào, bao câu chuyện về những ngày chiến đấu, lao động, học tập nối mạch ùa về...

Ðại tá từ du kích

Trong các bạn bè, đồng đội cùng hàm, trên dưới tuổi tám mươi, Ðại tá Trần Công Bình (Út Bình) có lẽ là người đậm chất từ du kích, tên ông gắn liền với du kích Thạnh Phú một thời lẫy lừng chốt chặn phía Nam tỉnh lỵ An Xuyên, bảo vệ vùng giải phóng Nhà Phấn, Rạch Mũi trong tầm đại bác của địch.

Nửa đời tìm nhau

Ở các địa phương miền Tây Nam Bộ, chúng tôi tìm gặp một số cán bộ lão thành, học sinh miền Nam (HSMN) tập kết ra Bắc năm 1954. Trong câu chuyện kể của họ, ngoài ký ức đẹp về tấm lòng Nhân dân miền Bắc dành cho HSMN tham gia học tập, từ nơi ở, chén cơm, manh áo... còn là những mối tình “cơ duyên trời định”. Người còn sống giờ tuổi đã ngoài 80, nhưng khi nhắc nhớ về kỷ niệm ở miền Bắc, họ lại ngời lên những ký ức năm xưa.

Người về bến cũ

Bến Sông Ðốc - địa danh gắn liền với sự kiện lịch sử chuyến tàu tập kết, những ngày cuối năm 2024 chứng kiến cuộc hội ngộ đặc biệt của cựu học sinh miền Nam. Họ, những người từng bước lên tàu rời quê hương cách đây 70 năm để ra Bắc học tập, cống hiến, nay trở lại bến xưa với mái đầu bạc trắng và trái tim ngập tràn cảm xúc.

Về căn cứ xưa, nghe kể chuyện chở che bộ đội đánh giặc...

Trong kháng chiến chống Mỹ, Xẻo Trê (thuộc ấp Lý Ấn, xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước) được chọn làm nơi đóng quân của Ban Chỉ huy Tỉnh đội. Suốt 9 năm (1964-1973), căn cứ Xẻo Trê vẫn giữ được bí mật, an toàn tuyệt đối, tạo sức mạnh để tấn công kẻ địch. Ðó là nhờ vào lòng dân luôn đùm bọc che chở, hết lòng vì cách mạng, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ khu căn cứ.