ĐT: 0939.923988
Thứ hai, 25-8-25 20:33:41
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Kỷ niệm 68 năm ngày Thương binh – Liệt sĩ (27/7/1947-27/7/2015): Có một tượng đài Mẹ trong các ca khúc cách mạng

Báo Cà Mau Đã 68 năm trôi qua, kể từ ngày 27/7/1947, hằng năm, cứ đến ngày này, những nén tâm nhang của bao thế hệ người Việt lại được thắp lên thành kính khắp các nghĩa trang, đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ.

Đã 68 năm trôi qua, kể từ ngày 27/7/1947, hằng năm, cứ đến ngày này, những nén tâm nhang của bao thế hệ người Việt lại được thắp lên thành kính khắp các nghĩa trang, đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ. Truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta lại được cụ thể hoá bằng những hành động ý nghĩa đối với những người lính mang thương tích trở về sau chiến tranh. Và trong ngày lễ kỷ niệm đó, có một tượng đài vĩ đại không thể không nhắc tới đó là Mẹ - một phần của lịch sử bi tráng, đau thương; làm nên bản trường ca bất tử, đầy kiêu hãnh tự hào, minh chứng cho sự trường tồn, bất diệt của dân tộc.

Gần 20 năm sau ngày đất nước thống nhất, năm 1994, Nhà nước ra pháp lệnh phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Và trong suốt dặm dài lịch sử đấu tranh của lớp lớp cha anh, hình tượng Mẹ đã tạc vào dáng đứng của Tổ quốc, đã đi vào các tác phẩm văn học - nghệ thuật một cách tự nhiên, dung dị mà sinh động, sáng ngời.

MH: MT

Mỗi bài thơ, mỗi bản nhạc viết về Mẹ đều đẹp, đều sang trọng, chất phác và đầy day dứt. Ðể chỉ dẫu một lần nghe qua, không ai có thể giấu được xúc động, bồi hồi.

Ðó là chân dung một người mẹ cụ thể, đằng đẵng chờ chồng ròng rã suốt 20 năm: “Cả cuộc đời cha đi bộ đội/ Quà về cho mẹ là mái tóc pha sương/ Và những vết thương trên ngực cha/ Khi trở gió lại đau nhức nhối…” để nhận về món quà hội ngộ: “Chiếc ba lô gió sương đã gội/ Gia tài cha tặng mẹ chỉ thế thôi…”. Trong suốt những tháng năm chiến tranh biền biệt ấy, riêng mẹ phải chịu bao gian khổ, thiệt thòi mà không một lời than vãn: “Hai mươi năm ngày mẹ cưới/ Ðến hôm nay sống đời vợ chồng/ Hai mươi năm… mẹ nuôi con một mình”. Vậy nên, mẹ hiển nhiên là một biểu tượng cao quý để mỗi đứa con ngợi ca và muốn tìm về để nương náu sau những ưu phiền, va vấp, là một bờ vai rộng lớn, bao dung cho con dựa vào: “Con chỉ tìm về với mẹ thôi/ Trong lòng mẹ bát ngát biển khơi…” (Mẹ - Phan Long, phổ thơ Ðoàn Ngọc Thu).

Sẽ không có gì ngạc nhiên khi các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ dành cho Mẹ nhiều tình cảm đến vậy, và khắc hoạ tạc thành một chân dung Mẹ nhiều mất mát, hy sinh mà đẹp lộng lẫy đến như thế. Bởi những cuộc trường chinh của dân tộc đau thương này đã lấy đi của mẹ biết bao điều quý giá mà không gì bù đắp nổi: “Nước mắt mẹ không còn/Vì khóc những đứa con/ Lần lượt ra đi, đi mãi mãi…” và dẫu chiến tranh đã lùi xa, “Vết thương trên thịt da đã lành theo năm tháng/ Nhưng vết thương lòng, mẹ vẫn còn nặng mang…”. Chỉ với “Người mẹ của tôi”, Nhạc sĩ Xuân Hồng đã nói thay triệu triệu người con đất Việt niềm thương cảm lớn lao cùng lòng biết ơn vô hạn những người mẹ đã rứt ruột hiến dâng những đứa con cho Tổ quốc mình. Ðể từ đó, các thế hệ lớn lên trong hoà bình biết trải lòng mình ra san sẻ, tri ân, biết sống có ích hơn, xứng đáng hơn với những hy sinh của mẹ: “Mẹ Việt Nam ơi, mẹ Việt Nam ơi/ Cho con xin chia sớt nỗi buồn/ Cho con xin xẻ đôi bát cơm/ Cho con hôn đôi mắt mỏi mòn/ Cho con soi lại bóng hình con…/ Mẹ Việt Nam ơi, mẹ Việt Nam ơi/Xin cám ơn người, người mẹ của tôi”.

Mẹ nhân từ, Mẹ bao dung và giàu đức hy sinh, nhận về mình hết thảy những gian nan, thiệt thòi để thành huyền thoại, những huyền thoại sống đáng ngưỡng vọng: “Mẹ về đứng dưới mưa/ Che đàn con nằm ngủ/ Canh từng bước chân thù/ Mẹ ngồi dưới cơn mưa…”. Mẹ trong “Huyền thoại mẹ” của Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã hoá thân thành một biểu tượng chung: mẹ Tổ quốc. Ðó là người mẹ của hàng ngàn đứa con chiến sĩ, đầy quả cảm, can trường, mưu lược: “Mẹ lội qua con suối/ Dưới mưa bom không ngại/ Mẹ nhẹ nhàng đưa lối/ Tiễn con qua núi đồi”, là bóng mát cho lớp lớp đàn con cách mạng nương nhờ, để chiến đấu và tìm về như một chốn bình an: “Mẹ là nước chứa chan/ Trôi dùm con phiền muộn/ Cho đời mãi trong lành/Mẹ chìm dưới gian nan”.

Lật lại từng trang sử bi hùng của dân tộc, đâu đâu cũng thấp thoáng dáng dấp Mẹ. Mẹ đã đồng hành cùng dân tộc trên muôn cuộc trường chinh. Trong số đó, có những người mẹ “may mắn”, được đón những đứa con trở về dù chỉ là nắm tro cốt, chiếc ba lô, cuốn nhật ký. Có những người mẹ phải gánh chịu tột cùng đau thương khi dâng tặng đứa con mình cho Tổ quốc mà vĩnh viễn không nhìn thấy hình hài, để rồi một đời khắc khoải nhớ mong, hy vọng, đến khi nhắm mắt vẫn còn đau đáu...

Chúng ta đã có những tượng đài của Mẹ Thứ, Mẹ Suốt như những minh chứng sống động của lịch sử, là đại diện tiêu biểu cho hàng vạn người Mẹ Việt Nam anh hùng. Tổ quốc sẽ đời đời khắc ghi công ơn trời biển của Mẹ, dẫu những việc làm và hành động của thế hệ hôm nay chưa thể đền đáp xứng đáng với những đóng góp và hy sinh của Người. Nhưng có một điều chắc chắn rằng, lòng thành kính sẽ mãi mãi tròn đầy, lòng biết ơn sẽ luôn khắc vào tâm khảm đến mãi muôn sau của triệu triệu người con đất Việt.

Khúc tráng ca tháng Bảy hào hùng, đầy tự hào, kiêu hãnh hằng năm vẫn đều đặn được cất lên đã lay động đến tận cùng cảm xúc của thế hệ hôm nay: “Hát về những người mẹ Việt Nam, hát mừng những người mẹ anh hùng/ Ðời dâng hiến giống nòi, mẹ sống giữa gian lao/ Vì đất nước hy sinh cả cuộc đời.../ Nhìn mái tóc mẹ bạc phơ, và ánh mắt mẹ như mơ/ Là biết mấy chờ mong mỏi mòn/ Từng đứa con ra đi không bao giờ trở lại…”.

Bằng xúc cảm chân thành của một người lính, Nhạc sĩ An Thuyên với ca khúc “Hát về Mẹ Việt Nam anh hùng” đã khái quát được một cách đủ đầy, trọn vẹn một chân dung Mẹ Việt Nam, sừng sững bao la như một tượng đài vĩ đại nhất của dân tộc: “Mẹ đã có ngàn đứa con, Mẹ đã có cả nước non/ Mẹ mãi mãi cùng con trên đường dài/ Núi sông hôm nay biết ơn người mẹ hiền…”, để muôn đời mẹ luôn gần gũi, chở che chúng con: “Thoả những nỗi sầu đau tháng ngày/ Và chúng con hôm nay như ùa vào lòng mẹ/ Lại nghe hát ru con bên nôi, Mẹ lại kể câu chuyện ngày xưa/ Mẹ đẹp mãi, Mẹ hát cùng con…”.

 Khi xem những thước phim tài liệu về Bà mẹ Việt Nam anh hùng những ngày tháng Bảy, tôi ít khi ngăn được nước mắt. Ở đó, hình ảnh những người mẹ hồn hậu, chất phác lại hiện ra: nhỏ bé, gầy guộc, tóc bạc, lưng còng, mắt mờ vẫn ôm chặt trong lòng và run run lau di ảnh hay tấm bằng Tổ quốc ghi công của người con liệt sĩ.

Sẽ thật khó để liệt kê hết các tác phẩm âm nhạc viết về Mẹ, ngợi ca Mẹ trong khuôn khổ một bài viết. Cũng như thật khó để kể hết công ơn, đức hy sinh vô bờ bến của hàng vạn Bà mẹ Việt Nam anh hùng trên mảnh đất đau thương nhưng quật khởi này. Vậy nên, người viết xin lại được mượn lời của Nhạc sĩ An Thuyên để khép lại thông điệp tháng Bảy như một lời tri ân thành kính nhất:“Trọn tình nước non, Mẹ Việt Nam anh hùng/ Tự hào chúng con có Mẹ Việt Nam anh hùng”./.

Ngô Thế Lâm

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 2: Tìm hài cốt liệt sĩ nơi xứ người

Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ được Đảng, Nhà nước, Quân đội và thân nhân liệt sĩ được tăng cường, bất kể thời tiết, địa hình trắc trở. Dẫu lắm vất vả, gian truân nhưng là hành trình tri ân về tình đồng đội, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về

LTS: Vào ngày 17/7/2024, Bộ Công an ban hành Kế hoạch số 356/KH-BCA-C06 về việc triển khai thu nhận mẫu ADN cho thân nhân của liệt sĩ chưa xác nhận được danh tính trên toàn quốc. Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà là Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin, đã chỉ đạo một cách sát sao đối với công an của các tỉnh, thành phố. Hoạt động ý nghĩa, nhân văn này nhằm đưa hài cốt các anh hùng liệt sĩ về đất mẹ an táng với tên họ và thông tin đầy đủ nhất, thể hiện sự tri ân mà thế hệ hôm nay đối với thế hệ đi trước.

Những chi bộ đảng đầu tiên ở Cà Mau

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3/2/1930) dưới sự sáng lập và rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam với con đường kiên định: Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. 

Trung đoàn Đặc công Đ10 kỷ niệm 80 năm thành lập

Ngày 9/8, Trung đoàn Đặc công Đ10 Anh hùng long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập, khẳng định truyền thống vẻ vang và tiếp nối ngọn lửa nhiệt huyết cách mạng cho thế hệ sau.

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.