ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 7-6-25 18:13:18
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Kỷ niệm 68 năm ngày Thương binh – Liệt sĩ (27/7/1947-27/7/2015): Có một tượng đài Mẹ trong các ca khúc cách mạng

Báo Cà Mau Đã 68 năm trôi qua, kể từ ngày 27/7/1947, hằng năm, cứ đến ngày này, những nén tâm nhang của bao thế hệ người Việt lại được thắp lên thành kính khắp các nghĩa trang, đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ.

Đã 68 năm trôi qua, kể từ ngày 27/7/1947, hằng năm, cứ đến ngày này, những nén tâm nhang của bao thế hệ người Việt lại được thắp lên thành kính khắp các nghĩa trang, đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ. Truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta lại được cụ thể hoá bằng những hành động ý nghĩa đối với những người lính mang thương tích trở về sau chiến tranh. Và trong ngày lễ kỷ niệm đó, có một tượng đài vĩ đại không thể không nhắc tới đó là Mẹ - một phần của lịch sử bi tráng, đau thương; làm nên bản trường ca bất tử, đầy kiêu hãnh tự hào, minh chứng cho sự trường tồn, bất diệt của dân tộc.

Gần 20 năm sau ngày đất nước thống nhất, năm 1994, Nhà nước ra pháp lệnh phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Và trong suốt dặm dài lịch sử đấu tranh của lớp lớp cha anh, hình tượng Mẹ đã tạc vào dáng đứng của Tổ quốc, đã đi vào các tác phẩm văn học - nghệ thuật một cách tự nhiên, dung dị mà sinh động, sáng ngời.

MH: MT

Mỗi bài thơ, mỗi bản nhạc viết về Mẹ đều đẹp, đều sang trọng, chất phác và đầy day dứt. Ðể chỉ dẫu một lần nghe qua, không ai có thể giấu được xúc động, bồi hồi.

Ðó là chân dung một người mẹ cụ thể, đằng đẵng chờ chồng ròng rã suốt 20 năm: “Cả cuộc đời cha đi bộ đội/ Quà về cho mẹ là mái tóc pha sương/ Và những vết thương trên ngực cha/ Khi trở gió lại đau nhức nhối…” để nhận về món quà hội ngộ: “Chiếc ba lô gió sương đã gội/ Gia tài cha tặng mẹ chỉ thế thôi…”. Trong suốt những tháng năm chiến tranh biền biệt ấy, riêng mẹ phải chịu bao gian khổ, thiệt thòi mà không một lời than vãn: “Hai mươi năm ngày mẹ cưới/ Ðến hôm nay sống đời vợ chồng/ Hai mươi năm… mẹ nuôi con một mình”. Vậy nên, mẹ hiển nhiên là một biểu tượng cao quý để mỗi đứa con ngợi ca và muốn tìm về để nương náu sau những ưu phiền, va vấp, là một bờ vai rộng lớn, bao dung cho con dựa vào: “Con chỉ tìm về với mẹ thôi/ Trong lòng mẹ bát ngát biển khơi…” (Mẹ - Phan Long, phổ thơ Ðoàn Ngọc Thu).

Sẽ không có gì ngạc nhiên khi các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ dành cho Mẹ nhiều tình cảm đến vậy, và khắc hoạ tạc thành một chân dung Mẹ nhiều mất mát, hy sinh mà đẹp lộng lẫy đến như thế. Bởi những cuộc trường chinh của dân tộc đau thương này đã lấy đi của mẹ biết bao điều quý giá mà không gì bù đắp nổi: “Nước mắt mẹ không còn/Vì khóc những đứa con/ Lần lượt ra đi, đi mãi mãi…” và dẫu chiến tranh đã lùi xa, “Vết thương trên thịt da đã lành theo năm tháng/ Nhưng vết thương lòng, mẹ vẫn còn nặng mang…”. Chỉ với “Người mẹ của tôi”, Nhạc sĩ Xuân Hồng đã nói thay triệu triệu người con đất Việt niềm thương cảm lớn lao cùng lòng biết ơn vô hạn những người mẹ đã rứt ruột hiến dâng những đứa con cho Tổ quốc mình. Ðể từ đó, các thế hệ lớn lên trong hoà bình biết trải lòng mình ra san sẻ, tri ân, biết sống có ích hơn, xứng đáng hơn với những hy sinh của mẹ: “Mẹ Việt Nam ơi, mẹ Việt Nam ơi/ Cho con xin chia sớt nỗi buồn/ Cho con xin xẻ đôi bát cơm/ Cho con hôn đôi mắt mỏi mòn/ Cho con soi lại bóng hình con…/ Mẹ Việt Nam ơi, mẹ Việt Nam ơi/Xin cám ơn người, người mẹ của tôi”.

Mẹ nhân từ, Mẹ bao dung và giàu đức hy sinh, nhận về mình hết thảy những gian nan, thiệt thòi để thành huyền thoại, những huyền thoại sống đáng ngưỡng vọng: “Mẹ về đứng dưới mưa/ Che đàn con nằm ngủ/ Canh từng bước chân thù/ Mẹ ngồi dưới cơn mưa…”. Mẹ trong “Huyền thoại mẹ” của Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã hoá thân thành một biểu tượng chung: mẹ Tổ quốc. Ðó là người mẹ của hàng ngàn đứa con chiến sĩ, đầy quả cảm, can trường, mưu lược: “Mẹ lội qua con suối/ Dưới mưa bom không ngại/ Mẹ nhẹ nhàng đưa lối/ Tiễn con qua núi đồi”, là bóng mát cho lớp lớp đàn con cách mạng nương nhờ, để chiến đấu và tìm về như một chốn bình an: “Mẹ là nước chứa chan/ Trôi dùm con phiền muộn/ Cho đời mãi trong lành/Mẹ chìm dưới gian nan”.

Lật lại từng trang sử bi hùng của dân tộc, đâu đâu cũng thấp thoáng dáng dấp Mẹ. Mẹ đã đồng hành cùng dân tộc trên muôn cuộc trường chinh. Trong số đó, có những người mẹ “may mắn”, được đón những đứa con trở về dù chỉ là nắm tro cốt, chiếc ba lô, cuốn nhật ký. Có những người mẹ phải gánh chịu tột cùng đau thương khi dâng tặng đứa con mình cho Tổ quốc mà vĩnh viễn không nhìn thấy hình hài, để rồi một đời khắc khoải nhớ mong, hy vọng, đến khi nhắm mắt vẫn còn đau đáu...

Chúng ta đã có những tượng đài của Mẹ Thứ, Mẹ Suốt như những minh chứng sống động của lịch sử, là đại diện tiêu biểu cho hàng vạn người Mẹ Việt Nam anh hùng. Tổ quốc sẽ đời đời khắc ghi công ơn trời biển của Mẹ, dẫu những việc làm và hành động của thế hệ hôm nay chưa thể đền đáp xứng đáng với những đóng góp và hy sinh của Người. Nhưng có một điều chắc chắn rằng, lòng thành kính sẽ mãi mãi tròn đầy, lòng biết ơn sẽ luôn khắc vào tâm khảm đến mãi muôn sau của triệu triệu người con đất Việt.

Khúc tráng ca tháng Bảy hào hùng, đầy tự hào, kiêu hãnh hằng năm vẫn đều đặn được cất lên đã lay động đến tận cùng cảm xúc của thế hệ hôm nay: “Hát về những người mẹ Việt Nam, hát mừng những người mẹ anh hùng/ Ðời dâng hiến giống nòi, mẹ sống giữa gian lao/ Vì đất nước hy sinh cả cuộc đời.../ Nhìn mái tóc mẹ bạc phơ, và ánh mắt mẹ như mơ/ Là biết mấy chờ mong mỏi mòn/ Từng đứa con ra đi không bao giờ trở lại…”.

Bằng xúc cảm chân thành của một người lính, Nhạc sĩ An Thuyên với ca khúc “Hát về Mẹ Việt Nam anh hùng” đã khái quát được một cách đủ đầy, trọn vẹn một chân dung Mẹ Việt Nam, sừng sững bao la như một tượng đài vĩ đại nhất của dân tộc: “Mẹ đã có ngàn đứa con, Mẹ đã có cả nước non/ Mẹ mãi mãi cùng con trên đường dài/ Núi sông hôm nay biết ơn người mẹ hiền…”, để muôn đời mẹ luôn gần gũi, chở che chúng con: “Thoả những nỗi sầu đau tháng ngày/ Và chúng con hôm nay như ùa vào lòng mẹ/ Lại nghe hát ru con bên nôi, Mẹ lại kể câu chuyện ngày xưa/ Mẹ đẹp mãi, Mẹ hát cùng con…”.

 Khi xem những thước phim tài liệu về Bà mẹ Việt Nam anh hùng những ngày tháng Bảy, tôi ít khi ngăn được nước mắt. Ở đó, hình ảnh những người mẹ hồn hậu, chất phác lại hiện ra: nhỏ bé, gầy guộc, tóc bạc, lưng còng, mắt mờ vẫn ôm chặt trong lòng và run run lau di ảnh hay tấm bằng Tổ quốc ghi công của người con liệt sĩ.

Sẽ thật khó để liệt kê hết các tác phẩm âm nhạc viết về Mẹ, ngợi ca Mẹ trong khuôn khổ một bài viết. Cũng như thật khó để kể hết công ơn, đức hy sinh vô bờ bến của hàng vạn Bà mẹ Việt Nam anh hùng trên mảnh đất đau thương nhưng quật khởi này. Vậy nên, người viết xin lại được mượn lời của Nhạc sĩ An Thuyên để khép lại thông điệp tháng Bảy như một lời tri ân thành kính nhất:“Trọn tình nước non, Mẹ Việt Nam anh hùng/ Tự hào chúng con có Mẹ Việt Nam anh hùng”./.

Ngô Thế Lâm

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.