Tôi sinh ra và lớn lên trong những tháng ngày đất nước không còn gót giày đinh của giặc. Tôi chỉ biết chiến tranh qua những câu chuyện của bà về những trận đánh vang dội ở làng trên, xóm dưới và qua những nấm mồ sau vườn của ông, của chú…
Bà nói vẫn còn lạc đâu đó những nấm mồ trong lớp đất nâu, nhưng dù ở đâu, họ cũng nhìn về lá cờ Tổ quốc. Đến ngày giỗ ông, bà tôi lại kêu má dọn một mâm, trịnh trọng thắp ba nén nhang mời hương hồn các chiến sĩ về ăn. Bà dạy, đó là mâm cơm chiến sĩ. Mâm cơm dành cho những người đã ngã xuống vì màu cờ sắc áo.
Lớn lên, ở mái trường làng tôi còn biết thêm chiến tranh qua những lời thầy giảng trong từng trang lịch sử. Tôi thấy tự hào vì mình được chảy chung dòng máu Lạc Hồng với những con người kiên trung, bất khuất. Tôi biết chiến tranh qua những vần thơ cô dạy, những vần thơ được viết ra từ máu và nước mắt của những người sống thời lửa khói: “Quê hương ta từ ngày khủng khiếp/ Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn…” (Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm) hay những vần thơ đi cùng năm tháng để nhớ cái thời “khi Tổ quốc cần họ biết sống xa nhau”: “Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới/ Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau/ Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn/ Đâu ngờ từ đó bặt tin nhau…” (Núi đôi - Vũ Cao).

Xa mái trường làng, tôi biết và hiểu về chiến tranh, về những đau thương vô hạn và những mất mát lớn lao khi tôi là sinh viên tình nguyện mang quà, bánh tặng trẻ em nhiễm chất độc màu da cam. Tôi biết về chiến tranh qua những lần đi thắp hương tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ tại nghĩa trang liệt sĩ; được các cô, các chú ôn lại truyền thống của dân tộc tại những khu di tích...
Tôi trưởng thành trong sự đổi thay của đất nước, tôi lao vào cuộc mưu sinh vì cơm - áo - gạo - tiền. Tôi mướn căn nhà trọ nhỏ nằm ngoại ô thành phố, nơi ấy vắng tiếng ồn ào của xe cộ và có thể nghe những cơn gió mùa thao thức. Sáng sáng, chiều chiều ra ngồi phía trước nhà nhìn những ông già, bà già đi bộ tập thể dục. Và trong số ấy có một ông già tóc bạc lơ phơ, da nhăn nheo, gầy gò. Tôi không thấy ông cười hay nói chuyện với ai. Ông đi mà mắt cứ nhìn hai hàng cây bên đường trơ trụi lá. Ngày, tháng, năm, bỗng có một ngày không ai thấy ông đi bộ qua con đường này nữa. Lâu lắm, lâu đến nỗi mùa sang, hai hàng cây bên đường phủ đầy màu lá, những chùm hoa tim tím nở rộ đầy trời, ông già trở lại, vẫn bước đi thật chậm rãi. Ông trở lại với cái dáng gầy hao, đôi mắt hố thẳm sâu, ráo hoảnh, hôm nay nhìn ươn ướt. Cái miệng cười móm mém như một đứa trẻ được cho quà. Bắt chuyện với ông, ông kể tôi nghe chuyện ở chiến trường năm xưa đơn vị ông đóng quân bên bìa rừng đầy màu bằng lăng tím, có cô quân y đem thuốc giúp ông thoát khỏi cơn sốt rét và một lời hứa hẹn chờ ngày giải phóng. Kể đến đoạn bom của kẻ thù dội ầm ầm vào bìa rừng nơi ông đóng quân, khói đen mù mịt trùm lên màu bằng lăng tím. Ông tìm gặp xác cô quân y nằm dưới góc bằng lăng, cành hoa tím cài trên ngực áo. Kể đến đây, ông lấy tay chùi nước mắt. Mấy người đi tập thể dục, mỗi người đi qua nghe được một đoạn, có người lắc đầu bảo ông già rồi nên lẩn trí, người bảo ông về nhà đi, người thì hỏi ông hết bệnh chưa? Ông già lắc đầu, cười: “Bệnh gì đâu, ngày mai là đánh trận điểm thằng Tư Cót rồi, ít bữa nữa là độc lập rồi mới về nhà chớ”. Ông già nhìn lên trời tin ngày độc lập, tin những cánh bằng lăng không bao giờ nhạt phai màu đợi chờ, chung thủy. Người nhà đến rước ông về, ông nhìn với đôi mắt như van nài được nấn ná thêm chút nữa. Được đưa lên xe, ông khóc, nước mắt nước mũi tèm nhèm.
Hỏi ra mới biết, ông già vừa mới bị tai biến, thần trí khi nhớ, khi quên. Mỗi buổi chiều thấy vắng ông là người nhà biết ông lại đi tới con đường này để nhìn bằng lăng tím. Vậy hóa ra ông kể câu chuyện ở chiến trường là có thiệt. Sống hết một đời người mấy mươi năm vui buồn đều có, vậy mà cuối cùng ông già chỉ giữ lại cho mình ký ức về một mùa hoa tươi đẹp và có cả mất mát, đau thương. Còn những tấm bằng khen, huy chương lấp lánh thì ông quên hết rồi. Vậy là, tôi lại biết thêm chiến tranh qua đôi mắt một ông già!
CẨM THE

Truyền hình







Xem thêm bình luận