ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 20-7-25 19:42:34
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Ký ức Dớn Hàng Gòn

Báo Cà Mau 56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Bia căm thù Dớn Hàng Gòn.

Bia căm thù Dớn Hàng Gòn.

Ðám giỗ chung của 65 người

Ông Huỳnh Văn Chiến, hiện là dân Ấp 4, xã Khánh Lâm, huyện U Minh, nay đã 83 tuổi, nhân chứng của sự kiện máy bay B52 đánh bom tại Dớn Hàng Gòn, thuật lại: “Tầm hơn 4 giờ sáng 11/9/1969 tính theo lịch âm, 3 đợt B52 liên tục lao tới trút bom, không một ai trở tay kịp. Bom trúng tuyến dân cư hai bên bờ kinh Dớn Hàng Gòn, thuộc địa bàn Ấp 3 bây giờ, khiến 65 người chết, hàng trăm người bị thương. Có mấy gia đình không một ai sống sót, đau đớn hơn, nhiều người không tìm lại được thi thể để chôn cất”.

Chưa dừng lại ở đó, sáng sớm, giặc dùng B57 tiếp tục trút bom cày xới khu vực này. Tiếp đó là trận đổ quân càn quét, ruồng bố với quy mô lớn của kẻ thù. Theo lời ông Chiến, sau trận bom B52, mọi thứ đều tan nát hết, tiếng oán khóc ngút trời. “Người chết chủ yếu là già cả, phụ nữ, trẻ em. Thi thể nhiều người không còn lành lặn vì trúng bom, ai chứng kiến cảnh đó cũng không thể cầm được nước mắt. Tội ác của giặc kinh hoàng quá”, giọng ông Chiến như nấc nghẹn.

Hằng năm, vào ngày 11/9, dân Khánh Lâm tề tựu về Bia căm thù tại Dớn Hàng Gòn để làm đám giỗ chung cho 65 người đã chết trong trận bom năm ấy. Sau đó, hầu như cả đoạn kinh, hai bên bờ dài 2 cây số, nhà nào cũng tổ chức đám giỗ riêng để tưởng nhớ người thân. Ông Lưu Khắc Huy, dân Ấp 3, chia sẻ: “Mỗi dịp giỗ tại Dớn Hàng Gòn, những câu chuyện về chiến tranh lại được nhắc nhớ để thế hệ sau biết được những đau thương, mất mát, hy sinh của thế hệ đi trước và tội ác của giặc gây ra ở xứ sở này; để những người hôm nay hiểu hết giá trị của cuộc sống hoà bình, ấm êm, hạnh phúc và sống xứng đáng với ông cha”.

Biến đau thương thành sức mạnh, đất và người Khánh Lâm lại cùng nhau kề vai sát cánh đánh đuổi giặc thù. Ông Chiến kể: “Có nhiều người Dớn Hàng Gòn mất đi người thân, cắt máu ăn thề, đội khăn tang để tham gia kháng chiến, quyết đền thù nhà, nợ nước. Xung quanh Khánh Lâm dày đặc đồn bót, giặc biết đây là căn cứ địa cách mạng nên dùng đủ mọi thủ đoạn, âm mưu ác độc nhất, phương tiện chiến tranh hiện đại nhất hòng triệt tiêu, nhưng đâu có được. Chúng muốn “Nhổ cỏ U Minh”, nhưng chính tại nơi đây, đất và người U Minh đã cho chúng biết thế nào là thất bại ê chề, nhục nhã. Ngày toàn thắng, quê hương hoà bình, đất nước thống nhất, bà con lại tề tựu về Dớn Hàng Gòn để làm một lễ giỗ chung cho những người đã khuất, báo tin chiến thắng, nỗi hờn căm đã dịu bớt phần nào”.

Ông Huỳnh Văn Chiến, 83 tuổi, nhân chứng sự kiện giặc Mỹ dùng B52 thảm sát người dân vô tội, kể lại ký ức bi hùng của quê hương.

Ông Huỳnh Văn Chiến, 83 tuổi, nhân chứng sự kiện giặc Mỹ dùng B52 thảm sát người dân vô tội, kể lại ký ức bi hùng của quê hương.

Tự hào quê hương Khánh Lâm

Ôn lại chuyện xưa, những bậc cao niên còn kể cho khách nghe nhiều điều lý thú về vùng đất Khánh Lâm. Ông Chiến tiết lộ, địa danh kinh Sáu Tiến là đặt theo danh xưng của thân phụ ông. Còn địa danh Dớn Hàng Gòn, là do hồi thời trước, một vị cố cựu về đây trồng 9 cây gòn rất lớn, vị này được bà con trong vùng gọi là ông Chín Cây Gòn. Ông Phạm Hồng Bé, dân Ấp 2, xã Khánh Lâm, tiết lộ thêm: “Kinh Dớn Hàng Gòn được đào bằng tay vào thời Pháp, sau đó, vì là vùng đất dớn phèn, lại có sẵn 9 cây gòn lão, gọi riết thì thành danh Dớn Hàng Gòn”.

Theo sử liệu, vào khoảng năm 1932, tên gọi Khánh Lâm chính thức định danh với tư cách một đơn vị hành chính cấp xã (Khánh An tách làm 3 xã: Khánh Lâm, Khánh An và Khánh Bình). Nhiều lần chia tách về địa giới hành chính, nhưng Khánh Lâm là cái tên được gìn giữ xuyên suốt. Ông Nguyễn Hữu Thành, nguyên Phó trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, cho biết: “Thời kháng Pháp, có câu “nhất Thới, tam Khánh” là nói về Thới Bình và Khánh An, Khánh Bình, Khánh Lâm. Ở đây không chỉ nói về địa danh, mà là truyền thống cách mạng anh dũng tuyệt vời, tiêu biểu của những vùng đất này trong kháng chiến ở Cà Mau”.

Từ năm 1972-1974, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt khi ấy là Bí thư Khu uỷ đã lựa chọn Khánh Lâm là căn cứ của Khu uỷ và nơi đứng chân hoạt động khi cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra ác liệt. Ông Lê Thanh Mãi, Phó chủ tịch UBND xã Khánh Lâm, chia sẻ: “Truyền thống cách mạng hào hùng, lịch sử vẻ vang của Khánh Lâm mãi mãi là niềm tự hào lớn lao của những thế hệ con người trên quê hương này. Khánh Lâm hôm nay đang trên đà đổi mới, phát triển mạnh mẽ, đời sống Nhân dân ngày càng sung túc, hạnh phúc, đó là cách để thế hệ hôm nay tiếp nối, tri ân với công lao, gởi gắm của tiền nhân”.

Theo dòng thời sự, thông tin Khánh Lâm vẫn giữ được “tên tuổi” và trở thành “xã lớn” sau khi sáp nhập, tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp theo dự kiến đã được công bố làm sôi nổi, hào hứng thêm câu chuyện. Ông Mãi tâm tình: “Bà con nghe có xã Khánh Lâm thì ủng hộ, mừng vui lắm. Bởi cái tên Khánh Lâm là hồn cốt, máu thịt đã thấm sâu vào huyết quản của mỗi con người nơi đây rồi”.

Mươi năm trước, khi về Khánh Lâm, chúng tôi nhớ hoài câu nói gan ruột của một vị lãnh đạo xã: “Xã anh hùng mà nghèo quá, người ta cười, mình mắc cỡ”. Quả tình khi ấy, ai cũng phải chạnh lòng khi nhìn vào một vùng đất bị tàn phá bởi bom đạn chiến tranh, khởi đầu với muôn vàn khó khăn, rơi vào cảnh nghèo “nhất nhì” ở U Minh. Vậy mà hôm nay, sau 50 năm đất nước hoà bình, thống nhất, Khánh Lâm đang trỗi mình mạnh mẽ để viết nên biết bao điều tươi đẹp, hy vọng với một diện mạo nông thôn trù phú, sung túc, văn minh. Dòng kinh Dớn Hàng Gòn yên bình màu nước đỏ U Minh, nếp sống người dân quê hai bên bờ thơ thới, yên vui.

Chúng tôi định từ giã rồi, nhưng những bậc cao niên nơi đây còn kêu nán lại đôi chút để nhắn mấy lời tâm sự: “Bia căm thù Dớn Hàng Gòn bây giờ xuống cấp quá, đường đi vô cũng khó khăn, cây cầu giao thông nông thôn bên kia bờ nối qua bia cũng đã hư hỏng. Bà con nơi đây mong các cấp, các ngành quan tâm để trùng tu, tôn tạo, tạo điều kiện để nơi đây trở thành địa chỉ đỏ giáo dục truyền thống cách mạng, để những người hôm nay không quên về ký ức bi hùng của quê hương này”.


Theo thông tin từ Bảo tàng tỉnh, địa điểm giặc rải bom thảm sát người dân ở Dớn Hàng Gòn đã được liệt kê, đưa vào danh mục cấp tỉnh đủ điều kiện để lập hồ sơ và công nhận di tích lịch sử - văn hoá cấp tỉnh. Theo quy định hiện hành, cấp chính quyền địa phương là nơi trực tiếp đề xuất và phối hợp với đơn vị chuyên môn là Bảo tàng tỉnh để tiến hành các bước và hoàn thiện thủ tục để công nhận di tích. Đến thời điểm hiện tại, Bia căm thù Dớn Hàng Gòn vẫn chưa được xếp vào hệ thống các di tích đã được công nhận của tỉnh Cà Mau, đó là điều mà những người dân Dớn Hàng Gòn hết sức trăn trở, mong mỏi.


Phạm Hải Nguyên

 

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.

Những khó khăn, thách thức của người làm báo trong thời kháng chiến

Mùa khô năm 1964, lần thứ hai tôi theo mẹ từ Bến Tre vào Cà Mau thăm ba tôi đang làm ruộng và dạy học tư ở Kinh Hãng Giữa... Ba tôi bất hợp pháp kể từ năm bác ruột thứ tư của tôi - 1 trong 12 người Việt Minh làng Ba Mỹ bị giặc Pháp bắt chặt đầu ở bót Nhà Việc Mỹ Chánh năm 1946... Lần này, ba tôi không cho tôi trở về quê nữa, vì về ngoải mai mốt lớn lên tụi giặc nó bắt lính... Thế là tôi phải ở lại trong này, thành công dân Cà Mau từ đó.

Ðài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến - Tiếng nói của khát vọng độc lập, tự do

Đài Nam Bộ Kháng chiến ra đời những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947-1954). Có lúc đóng ở Ðồng Tháp Mười (Long An); có giai đoạn ở Thới Bình, Ðầm Dơi, Ngọc Hiển, U Minh (Cà Mau), hay Kiên Giang, Bạc Liêu; có thời điểm đài đổi tên thành Ðài Tiếng nói Nam Bộ. Tuy vậy, dù ở bất cứ nơi đâu, tên gọi khác nhau, nhưng các thế hệ cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên của đài không ai được đào tạo bài bản về phát thanh nhưng đã làm nên một đài phát thanh vang danh, lừng lẫy; tạo dấu ấn đặc biệt trong lịch sử báo chí Việt Nam nói chung và ngành phát thanh nói riêng. Ðó là tiếng nói của Uỷ ban Nam Bộ Kháng chiến; cầu nối của Ðảng, Bác Hồ với đồng bào Nam Bộ; là ước mong, khát vọng của đồng bào nơi đây về một Việt Nam độc lập, tự do.