Ngày 23/11/2012, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung (SĐ-BS) một số điều của Luật Phòng chống tham nhũng và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/2/2013. Luật SĐ-BS một số điều của Luật Phòng chống tham nhũng có bổ sung thêm 9 điều mới; sửa đổi 15 điều và bãi bỏ 1 điều (Điều 73).
Về Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng (khoản 4 Điều 55 và Điều 73): Luật đã bỏ cụm từ “Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng” tại khoản 4 Điều 55 và bãi bỏ Điều 73 Luật Phòng chống tham nhũng. Như vậy, ở Trung ương, Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng sẽ được thành lập trực thuộc Bộ Chính trị do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban để đảm bảo sự thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng đối với toàn bộ hệ thống chính trị trong việc phòng chống tham nhũng. Ở địa phương sẽ không tổ chức Ban chỉ đạo tỉnh, thành phố về phòng chống tham nhũng và tổ chức, hoạt động của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng sẽ được quy định trong văn kiện của Đảng, không quy định trong Luật Phòng chống tham nhũng. Bảo đảm nguyên tắc Đảng không làm thay chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước và vẫn phù hợp với Hiến pháp và pháp luật.
Về hình thức công khai, Luật SĐ-BS đã sửa đổi khoản 2 Điều 12 Luật Phòng chống tham nhũng về hình thức công khai. Các hình thức này bao gồm: Niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị; thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan; phát hành ấn phẩm; thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng và đưa lên trang thông tin điện tử. Ngoài ra, Luật SĐ-BS cũng quy định người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thể lựa chọn thêm hình thức công bố tại cuộc họp của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
![]() |
| Ảnh minh họa. |
Về minh bạch tài sản, thu nhập, việc công khai bản kê khai tài sản là quy định mới về phòng ngừa tham nhũng, góp phần minh bạch tài sản, thu nhập để tiến tới kiểm soát thu nhập, đồng thời tạo điều kiện cho việc giám sát, phát hiện tham nhũng. Luật cũng đã bổ sung quy định về công khai bản kê khai tài sản (Điều 46a). Theo đó, bản kê khai tài sản phải được công khai tại nơi thường xuyên làm việc của người có nghĩa vụ kê khai. Người có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức quyết định việc công khai bằng hình thức công bố tại cuộc họp hoặc niêm yết tại trụ sở làm việc của người có nghĩa vụ kê khai. Trong trường hợp niêm yết, thì thời gian tối thiểu là 30 ngày liên tục.
Về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng, Luật bổ sung thêm Điều 53a về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức trong việc tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển sang vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức khi có căn cứ cho rằng cán bộ, công chức, viên chức đó có hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến tham nhũng nếu xét thấy người đó tiếp tục làm việc có thể gây khó khăn cho việc xem xét, xử lý. Đồng thời khoản 2 Điều 53a cũng quy định về trách nhiệm của người đứng đầu, người có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức trong việc áp dụng các biện pháp tạm thời này khi có yêu cầu của cơ quan thanh tra, Kiểm toán Nhà nước, cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nếu trong quá trình thanh tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát phát hiện có căn cứ cho rằng người đó có hành vi tham nhũng để xác minh, làm rõ.
Nhuận Phát

Truyền hình








Xem thêm bình luận