(CMO) Ai đã từng sinh ra và lớn lên ở vùng sông nước Cà Mau, chắc hẳn sẽ không cảm thấy xa lạ với hình ảnh cây gòn trồng dọc theo những con đường quê, với những tán lá xanh um, mát mẻ, xua đi cái nắng hanh khô của thời điểm giao mùa.
Chẳng biết cây gòn được ngoại trồng từ bao giờ, nhưng có lẽ đã rất lâu, bởi khi tôi còn là con bé gầy nhom, đen nhẻm, khoảng 11, 12 tuổi thì cây gòn của ngoại đã to, cao gần 20 m rồi.
Với tôi, hình ảnh cây gòn là một trong những ký ức đẹp đẽ còn đọng lại mãi trong tôi bởi sự yên bình, mộc mạc, chân chất thôn quê nhưng không kém phần thi vị, ngọt ngào, chan chứa tình cảm đong đầy yêu thương của ngoại.
Ngày xưa, trẻ con ở thôn quê không được ăn quà vặt như bây giờ, chủ yếu là những cây trái được trồng ở phía sau vườn nhà, như dừa, ổi, mía, xoài… Và những loại cây mọc hoang dọc theo các con đường làng quê, bờ kênh mương, liếp, như bình bát, ô môi, có cả trái gòn.
Thuở ấy tôi rất mê ăn trái gòn non, vị bùi bùi, ngọt ngọt, thanh thanh lẫn tinh chất dầu nhựa tiết ra từ hạt gòn non béo ngậy là món ăn khoái khẩu của tôi và bọn trẻ trâu thời đó. Sau mỗi mùa thay lá, cho trái chín, cây gòn của ngoại tiếp tục cho ra những quả non, xanh mướt, buông thõng, lắc lư như mời gọi lũ trẻ.
Do được trồng hơi xa trước ngõ nhà ngoại, nên cây gòn phải gồng mình chịu đựng sự phá phách, leo cây, bẻ cành, hái trái non để ăn của bọn trẻ con. Có lần cây cù móc bằng nhánh trúc, là dụng cụ để hái trái gòn, ô môi mà chúng tôi tự chế bị gãy còn ngắn ngủn, nhìn thấy những trái gòn non treo lơ lửng phía dưới thấp, gần thân cây gòn, tôi thèm không cưỡng lại được nên đã bạo gan trèo lên cây để hái trái. Nhưng thật là xui xẻo, đang với tay hái trái gòn non, tôi bị ngoại bắt gặp quả tang và mắng: “Tổ cha mầy, con gái mà leo cây! Đừng ăn trái non để nó già ngoại lấy bông cho má con làm gối nằm”. Tôi xấu hổ tụt xuống đất, cúi đầu không dám nhìn ngoại, lí nhí đáp: “Dạ con xin lỗi ngoại!”, rồi chạy thẳng về nhà. Từ đó về sau tôi không dám trèo cây hái gòn non của ngoại nữa…
Năm đó, chẳng biết có phải do bọn trẻ trâu và tôi lơ đễnh với trái gòn non hay không mà cây gòn của ngoại cho ra rất nhiều trái. Có những trái chín khô, nứt và nở xoè ra, từng túm bông tơ trắng như tuyết, lắc lư, bay theo làn gió nhẹ. Tôi lẽo đẽo theo má mang thúng tới nhà ngoại xin hái trái gòn khô đem về làm ruột gối nằm… Do đặc điểm của bông gòn nhẹ, mềm và mỏng, mặc dù hái cả thúng nhưng ép chặt lại chẳng được bao nhiêu. Để làm được một chiếc gối, má tôi phải lấy hàng trăm trái gòn mới đủ lượng bông cần thiết. Sau nhiều đợt tích luỹ, tôi được má ưu ái làm cho một chiếc gối ôm dài, mềm mại, tôi thích thú vô cùng. Mặc dù nó không được đẹp đẽ, kiêu sa như những chiếc gối làm bằng bông gòn nhân tạo ngày nay, nhưng với tôi đó là chiếc gối đặc biệt nhất, êm ái nhất, gắn với tuổi thơ ngọt ngào mà tôi may mắn có được trong đời.
Thời gian thấm thoát trôi qua, bọn trẻ trâu xóm tôi ngày nào đã lớn khôn, mỗi đứa một nơi. Các cô gái xóm tôi lần lượt ôm gối theo chồng, tôi cũng rời quê đi công tác, lập gia đình và chuyển về thành phố. Với cuộc sống nhộn nhịp, bon chen, lo toan bởi cơm áo gạo tiền, chẳng mấy ai còn nhớ đến cây gòn và những trò chơi nghịch ngợm của tuổi thơ một thời xa lơ xa lắc. Tôi cũng không còn nhớ cây gòn già nua, gân guốc, xù xì của ngoại đã không còn tồn tại tự bao giờ.
Trong những ngày thực hiện chủ trương giãn cách xã hội vì dịch Covid-19, bạn bè tôi có người ở yên tại chỗ, cũng có người tạm về quê để hít thở không khí trong lành và tránh dịch. Rất tình cờ, một người bạn đã chia sẻ cho tôi tấm hình chụp ở thôn quê, trước ngõ có cây gòn to, cao, trĩu trái. Tôi bồi hồi, xúc động nhớ về hình ảnh cây gòn ngày xưa; nhớ gương mặt hiền từ, nhăn nheo và lời trách mắng yêu thương năm nào của ngoại. Ký ức tuổi thơ ùa về làm nước mắt rưng rưng…./.
Lệ Kiều