Nhắc đến Nghệ nhân dân gian Nguyễn Long Phi (bác Ba Phi), mọi người đều liên tưởng ngay đến những chuyện cười mang đậm phong cách của người nông dân Nam Bộ. Chuyện cười của ông rất đơn sơ, mộc mạc, gắn liền với những sản vật, con người của xứ U Minh.
Nhắc đến Nghệ nhân dân gian Nguyễn Long Phi (bác Ba Phi), mọi người đều liên tưởng ngay đến những chuyện cười mang đậm phong cách của người nông dân Nam Bộ. Chuyện cười của ông rất đơn sơ, mộc mạc, gắn liền với những sản vật, con người của xứ U Minh.
Những chuyện dân gian truyền khẩu trào lộng, vô cùng độc đáo của bác Ba Phi đã đi vào văn học dân gian và ông cũng là người tiên phong sáng tạo ra dòng văn học dân gian hết sức ngộ nghĩnh, độc đáo và dí dỏm.
![]() |
Chiếc “tàu rùa” của bác Ba Phi được sưu tầm từ phần đất của ông Tư Sư. |
Chuyện kể nguyên bản của bác Ba Phi không nhiều, nhưng mọi người được nghe, được đọc, kể lại, từ đó thế hệ sau không ngừng sáng tạo ra những câu chuyện gắn với tên bác Ba Phi. Hiện nay, đã có rất nhiều dị bản về chuyện bác Ba Phi đã được mọi người đón nhận.
Ông được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam truy tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian đợt I vào ngày 4/6/2003.
Trong quá trình sưu tầm tài liệu, hiện vật và những chuyện mang tên bác Ba Phi, Bảo tàng tỉnh Cà Mau đã may mắn phát hiện được vật được cho là hiện vật gốc gắn liền với chuyện “Chiếc tàu rùa”.
"Hiện vật gốc" của chuyện “chiếc tàu rùa”
Vào năm 2010, ông Nguyễn Văn Ðung, ấp Ðường Ranh, xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời, phát hiện chiếc xuồng độc mộc trong lúc đào vét kinh nuôi cá. Ông Ðung là con của người em ruột bác Ba Phi, gọi bác Ba Phi là bác Hai.
Theo lời kể của bà Nguyễn Thị Anh, sinh năm 1931, là con dâu thứ hai của bác Ba Phi, đang cư ngụ tại ấp Lung Tràm, xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời: Chiếc xuồng độc mộc “tàu rùa” của gia đình ông Nguyễn Long Phi (bác Ba Phi) được mua ở An Giang vào khoảng năm 1925, dùng làm phương tiện đi lại, săn bắt thú rừng. Ðến năm 1959, do tuổi già sức yếu và chiếc xuồng độc mộc rất nặng khi di chuyển, nên bác Ba Phi đã tặng lại cho người cháu là ông Nguyễn Văn Sư (Tư Sư), con ông Nguyễn Văn Ðóng, em trai thứ 6 của bác Ba Phi.
Vào năm 1977, xuồng bị hư hỏng, ông Sư mang đi sửa lại để sử dụng nhưng do xuồng độc mộc khó ghép các mảnh gỗ để sửa nên ông đem ngâm dưới kinh, lâu ngày chiếc xuồng bị quên lãng theo thời gian.
Khi phát hiện ra chiếc xuồng, ông Nguyễn Văn Ðung đã kéo lên bờ ao để thông kinh nuôi tôm, do chiếc xuồng đã mục không còn sử dụng được nên đã bị lãng quên. Ðến năm 2015, ông Ðung đã bàn giao chiếc “tàu rùa” lại cho Bảo tàng tỉnh Cà Mau để lưu giữ, bảo quản và phát huy giá trị.
“Tàu rùa” là loại xuồng độc mộc, có chiều ngang nơi rộng nhất là 1 m, chiều dài 9 m, gỗ sao, màu đen, ở giữa đáy xuồng có khoét đường ngang khoảng 15 cm, dài khoảng 150 cm. Có một tình tiết rất hay gắn với mảnh ván ghép ở đáy xuồng:
Trước năm 1954, lính Pháp thường xuyên hành quân đến xóm Lung Tràm, đến nhà bác Ba Phi để mượn xuồng qua kinh, bác Ba Phi không muốn cho lính Pháp mượn nên đã khoét một lỗ lớn dưới đáy và dùng 4 tấm kẹp phía dưới đóng gá lại. Mỗi lần lính Pháp đến mượn xuồng, bác Ba Phi giả xuống xuồng thu gom dụng cụ săn bắt lên để đạp ngay chỗ khoét mà bác Ba đã định sẵn, nước tràn vào chìm. Bác Ba hô là xuồng hư, đợi vá lại rồi mới sử dụng nên lính Pháp không mượn được.
Ngày 28/5/2015, UBND tỉnh Cà Mau ra Quyết định số 714/QÐ-UBND xếp hạng Khu Lưu niệm Nghệ nhân dân gian Nguyễn Long Phi (bác Ba Phi) là di tích cấp tỉnh.
Chiếc “tàu rùa” được xem là hiện vật gốc rất có giá trị về mặt lịch sử, văn hoá, khoa học, góp phần rất lớn trong công tác trưng bày tuyên truyền với chủ đề về cuộc đời của Nghệ nhân dân gian Nguyễn Long Phi. Từ hiện vật này, mọi người có thể hiểu sâu hơn về sử cảnh của bác Ba Phi, nhân vật gắn liền với những chuyện cười ngộ nghĩnh nhưng mang đậm giá trị nhân văn./.
Bài và ảnh: Dương Minh Vĩnh