(CMO) Cuối tháng 9, trước những báo động đỏ về tình hình sạt lở nghiêm trọng bờ sông, bờ biển, nhiều địa phương vùng ĐBSCL ban bố tình trạng khẩn cấp. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và Phó thủ tướng Trịnh Đình Dũng đã có buổi làm việc với lãnh đạo 13 tỉnh, thành phố khu vực ĐBSCL để bàn những giải pháp nhằm hạn chế thấp nhất hệ luỵ do sạt lở gây nên.
Cà Mau là một trong những địa phương ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của tình trạng sạt lở bờ biển Đông, biển Tây và bờ sông. Phóng viên báo Cà Mau có cuộc phỏng vấn Phó chủ tịch UBND tỉnh Lê Văn Sử về công tác phòng chống và phương thức khắc phục lâu dài tình trạng sạt lở.
- Sạt lở bờ sông, bờ biển không còn là vấn đề riêng của tỉnh Cà Mau mà của toàn vùng ĐBSCL. Theo ông, các tỉnh trong vùng phải “chung tay, hợp sức” như thế nào để có giải pháp bền vững cho vùng?
Phó chủ tịch UBND tỉnh Lê Văn Sử: Theo đánh giá của Uỷ hội sông Mê Kông, do việc xây dựng hồ chứa ở thượng nguồn, lượng bùn cát về ĐBSCL đã suy giảm nghiêm trọng, dự báo đến năm 2020 chỉ còn khoảng 47,4 triệu tấn/năm (giảm 67% so trước năm 2007). Với tốc độ xây dựng hồ chứa như hiện nay, đến năm 2040 lượng bùn cát về ĐBSCL chỉ còn 4,5 triệu tấn/năm (giảm 97% so giai đoạn trước năm 2007). Hệ luỵ của việc giảm lượng bùn cát là quá trình sạt lở ở ĐBSCL sẽ diễn ra nhanh hơn và cường độ sẽ gia tăng trong thời gian tới.
Nhằm hạn chế sạt lở tại vùng ĐBSCL, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu. Trong đó, chỉ đạo triển khai các biện pháp ứng phó với sạt lở bờ sông, xói lở bờ biển gồm: Xây dựng Đề án bảo vệ bờ biển, củng cố nâng cấp hệ thống đê biển, phòng chống xói lở bờ biển; Tập trung đầu tư xử lý ngay những đoạn xói lở, sạt lở bờ sông, bờ biển nghiêm trọng; Bố trí, sắp xếp lại dân cư ven sông, kênh, rạch kết hợp xây dựng nông thôn mới.
Đối với thượng nguồn, xúc tiến hợp tác quốc tế quản lý bền vững sông Mê Kông về khai thác nguồn nước. Đối với vùng đồng bằng, cần có biện pháp rà soát, chỉ cấp phép khai thác cát với khối lượng hợp lý đảm bảo sự cân bằng tương đối; Thống nhất giao một đầu mối cấp phép khai thác cát trên các dòng sông; Sử dụng hợp lý bùn cát nạo vét để san lấp, đắp đê, làm đường.
Cùng với đó, quy hoạch sử dụng đất vùng ven sông theo hướng dành không gian thoát lũ. Bố trí, sắp xếp từng bước di dời dân ra khỏi bờ sông, những nơi có nguy cơ cao về sạt lở. Điều tra, cập nhật cơ sở dữ liệu liên quan đến sạt lở bờ sông; Nghiên cứu toàn diện về sự thay đổi lòng dẫn, dòng chảy sông Mê Kông, chế độ thuỷ văn, cân bằng bùn cát.
Các cơ quan chức năng cần điều tra, đánh giá lượng bùn cát về ĐBSCL hàng năm để làm cơ sở cho phép khai thác cát trên hệ thống sông chính. Đồng thời, nghiên cứu, tạo nguồn vật liệu mới thay thế, phục vụ san lấp, xây dựng nhằm hạn chế việc lấy cát từ lòng sông để tôn nền; Hạn chế việc sử dụng cát tự nhiên trong san nền, tăng cường sử dụng vật liệu thay thế tự nhiên.
Các địa phương cần quyết liệt kiểm soát hoạt động khai thác cát, sỏi xây dựng trái phép. Việc cấp bách hiện nay là sớm hoàn thiện Đề án bố trí lại dân cư ven sông, kênh rạch, phát triển bền vững vùng ĐBSCL. Để giảm thiệt hại, không có cách nào tốt hơn là di dời dân và giữ khoảng cách an toàn trước các nguy cơ sạt lở. Đó chính là cách “né” sạt lở lâu dài và hiệu quả.
![]() |
Tỉnh đã kiến nghị Trung ương sớm thực hiện đề án xây dựng đê của Chính phủ từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang. Khi đó, tuyến đê biển Đông sẽ được bảo vệ. Ảnh: Phong Phú |
Đặc biệt, về công tác quản lý, quản lý tổng hợp vùng bờ theo hình thức xã hội hoá, gắn với trách nhiệm trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng ven biển. Kiểm soát việc sử dụng và khai thác nước ngầm để hạn chế hiện tượng lún sụt đất; Rà soát quy hoạch xây dựng hạ tầng vùng ven biển để hạn chế các tác động gây xói lở bờ biển; Quy hoạch hệ thống quan trắc diễn biến xói lở bờ biển, nước biển dâng.
Ngoài ra, cần nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế xác định các giải pháp phòng chống sạt lở phù hợp với từng khu vực, thân thiện môi trường, giảm chi phí đầu tư; Nghiên cứu, đề xuất giải pháp phát triển rừng ngập mặn ven biển thích ứng với biến đổi khí hậu. Ứng dụng công nghệ giải quyết khu vực sạt lở phức tạp đảm bảo bền vững, không gây sạt lở lan truyền.
- Từ những thiệt hại nặng nề của Cà Mau ở khu vực ven biển do ảnh hưởng của thiên tai, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, thời gian qua tỉnh có những giải pháp gì ứng phó?
Phó chủ tịch UBND tỉnh Lê Văn Sử: Biến đổi khí hậu tác động trực tiếp đến các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực nông nghiệp và thuỷ sản, gây xói lở bờ biển, mất đất đai, mất rừng ngập mặn, thay đổi hệ sinh thái, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống người dân, nhất là cộng đồng dân cư ven biển của tỉnh Cà Mau.
Thời gian qua, Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương đã quan tâm đặc biệt đến khu vực ĐBSCL nói chung và tỉnh Cà Mau nói riêng trong ứng phó với biến đổi khí hậu. Một số chính sách quan trọng đã được ban hành như: Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu (năm 2011), Nghị quyết số 24 của Ban Chấp hành Trung ương về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu (năm 2013), Nghị quyết của UBTVQH về ứng phó với biến đổi khí hậu ở ĐBSCL (năm 2014). Gần đây nhất, vào cuối năm 2017, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 120/CP về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu.
Tỉnh cũng đã xây dựng kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu, trong đó xác định các giải pháp ứng phó theo từng giai đoạn. Thông qua Chương trình Mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020, các dự án liên quan đến gây bồi, tạo bãi, trồng và phục hồi rừng ngập mặn ven biển được triển khai. Đây là đai mềm chắn sóng biển và tạo được sinh kế bền vững cho cộng đồng dân cư ven biển.
Hay việc đầu tư nâng cấp đê biển Tây nhằm hạn chế xâm nhập mặn, góp phần ổn định đời sống của người dân, tạo tuyến đường giao thông ven biển để kết nối các địa phương trong tỉnh Cà Mau.
Đến nay, tỉnh Cà Mau đã xử lý khắc phục xói lở nhiều vị trí xung yếu ven biển với tổng chiều dài 28.765 m, tổng mức đầu tư hơn 956.66 tỷ đồng. Kết quả, đối với những vị trí đã xử lý bảo vệ bờ biển là tạo được bãi bồi phía bên trong và một phần phía bên ngoài kè, khôi phục được hàng trăm héc-ta rừng phòng hộ, bảo vệ đê biển; Đồng thời, xây dựng, nâng cấp tuyến đê biển Tây hoàn thiện được hơn 30 km.
- Từ thực địa đã ghi nhận nhiều khu vực cửa sông, cửa biển tập trung đông dân cư đang bị sạt lở nghiêm trọng, ảnh hưởng cuộc sống người dân. Vậy tỉnh Cà Mau xây dựng các dự án, đề án quy hoạch dân cư và xây dựng, nâng cấp đê biển giai đoạn trung và dài hạn như thế nào? Trước mắt, tỉnh sẽ làm gì để kịp thời giải bài toán tái định cư ?
Phó chủ tịch UBND tỉnh Lê Văn Sử: Cà Mau với 3 mặt giáp biển, cùng với áp lực từ làn sóng dân di cư tự do, nhiều năm qua tỉnh không ngừng nỗ lực sắp xếp, bố trí lại dân cư cho cư dân nghèo vùng ven rừng, ven biển.
UBND tỉnh Cà Mau đã phê duyệt Quy hoạch tổng thể bố trí dân cư trên địa bàn, giai đoạn 2006-2015. Theo đó, giai đoạn 2006-2015, tỉnh xây dựng 35 cụm, tuyến dân cư mới trên địa bàn 8 huyện, với tổng diện tích quy hoạch hơn 945 ha, khi hoàn thành, tổng số dân được bố trí, ổn định chỗ ở mới là 13.873 hộ (trong đó ổn định tại chỗ 5.142 hộ, di chuyển từ ngoài vào vùng dự án 8.731 hộ).
Tuy nhiên, do khó khăn về quỹ đất và nguồn vốn hỗ trợ từ Trung ương còn hạn chế, đến nay toàn tỉnh chỉ mới bố trí được hơn 1.500 hộ ở các vùng nguy cơ thiên tai cao vào sinh sống ổn định ở các điểm, khu dân cư. Do đó, tỉnh Cà Mau đã điều chỉnh đồ án Quy hoạch di dân tái định cư và các dự án chưa thực hiện được ở giai đoạn trước; Theo đó, giai đoạn 2016-2020 và lộ trình tới năm 2025, Cà Mau cần khoảng 1.400 tỷ đồng để di dời thêm gần 4.800 hộ ở những nơi có nguy cơ thiên tai cao (vùng ven biển, ven sông) vào sinh sống ổn định ở các cụm, tuyến dân cư mới.
Về Kế hoạch và nhu cầu bố trí lại dân cư ven sông, kênh, rạch giai đoạn 2019-2020, giai đoạn 2020-2025, tổng số hộ cần di dời 6.730 hộ, nhu cầu vốn thực hiện 940.410 triệu đồng.
Đối với việc xây dựng nâng cấp đê biển, đoạn đê biển từ Sông Đốc về thị trấn Cái Đôi Vàm được xây dựng từ năm 1999. Đến nay, nhiều vị trí bị xuống cấp nghiêm trọng, không thể bảo vệ được dân cư, bảo vệ sản xuất trước những đợt triều cường, sóng to ngay trong điều kiện bình thường. Khi có bão xảy ra thì hậu quả sẽ rất khó lường (thực tế trong ngày 3/8/2019, sóng lớn kết hợp với mưa, kèm theo dông lốc và triều cường dâng cao làm cho nước biển tràn qua đê biển Tây khu vực này từ 0,3-0,4 m).
Chính vì vậy, việc củng cố và nâng cấp tuyến đê biển Tây (đoạn đê biển từ Sông Đốc về thị trấn Cái Đôi Vàm) để tuyến đê biển Tây được đầu tư hoàn chỉnh là một yêu cầu thực tiễn hết sức cấp thiết, phù hợp với tinh thần, chủ trương của Chương trình củng cố và nâng cấp hệ thống đê biển từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang của Chính phủ.
UBND tỉnh Cà Mau đã kiến nghị Chính phủ tiếp tục xem xét bổ sung vốn cho Dự án đầu tư xây dựng, nâng cấp đê biển Tây tỉnh Cà Mau (đoạn từ Sông Đốc đến thị trấn Cái Đôi Vàm) trong giai đoạn trung hạn 2020-2025, với chiều dài 23.520 m, kinh phí đầu tư dự kiến khoảng 524 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, biển Đông là khu vực nhạy cảm đối với vấn đề bảo vệ an ninh quốc phòng. UBND tỉnh Cà Mau đã kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sớm thông qua Chính phủ việc rà soát quy hoạch hệ thống đê biển từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang để tỉnh Cà Mau có đủ cơ sở triển khai thực hiện dự án đầu tư xây dựng đê biển Đông trong thời gian tới.
- Xin cảm ơn ông!./.
Trong chuyến làm việc với lãnh đạo 13 tỉnh, thành vùng ĐBSCL ngày 29/7, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc nhận định: Chính phủ cần kiến nghị Quốc hội bố trí đủ vốn khoảng 3 ngàn tỷ đồng để hỗ trợ ĐBSCL xử lý dứt điểm tình trạng sạt lở trong 2 năm 2019-2020. Về nguồn lực cụ thể, Thủ tướng cho biết, Chính phủ sẽ xuất ngân sách dự phòng Trung ương năm 2019. Bên cạnh đó là bố trí 1 ngàn tỷ đồng bằng vốn đầu tư trung hạn và một số nguồn ODA khác để đủ 3 ngàn tỷ đồng vì mục tiêu đảm bảo tính mạng, tài sản, an toàn của người dân ĐBSCL. |
Phong Phú - Khánh Hưng thực hiện