(CMO) “Chưa bao giờ Đảng và Nhà nước quan tâm đến ĐBSCL về biến đổi khí hậu như bây giờ. Chúng ta bàn nhiều về thiên tai hơn là phương án tổ chức sản xuất”.
Nhiều mô hìmh công nghệ làm kè chống sạt lở được trình diễn tại hội thảo.
Đó là nhận định, trăn trở của Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hà Công Tuấn khi phát biểu kết luận hội thảo “Giải pháp xử lý sạt lở bờ sông, bờ biển vùng ĐBSCL” vào sáng nay, ngày 9/4.
Khai mạc hội thảo, Thứ trưởng thường trực Bộ NN&PTNT Hà Công Tuấn nhấn mạnh: “Khu vực ĐBSCL hiện nay có 526 khu vực sạt lở bờ sông, bờ biển với tổng chiều dài gần 800 km. Trong đó, có 57 khu sạt lở đặc biệt nguy hiểm với tổng chiều dài 164 km cần phải được xử lý để đảm bảo ổn định dân sinh”.
Trước diễn biến phức tạp của sạt lở, những năm qua, Trung ương, các tổ chức quốc tế và các địa phương đã đầu tư hàng chục ngàn tỷ đồng để đầu tư xây dựng công trình, nghiên cứu ứng dụng các giải pháp bảo vệ bờ sông, bờ biển.
Đặc biệt, năm 2018, ngoài việc bố trí ngân sách theo kế hoạch để các địa phương xây dựng công trình phòng chống sạt lở, Thủ tướng Chính phủ đã hỗ trợ 1.500 tỷ đồng từ nguồn dự phòng ngân sách trung ương để xử lý 29 dự án xử lý cấp bách sạt lở bờ sông, bờ biển thuộc 13 tỉnh, thành phố.
Ngoài ra, Bộ NN&PTNT đã trình Thủ tướng Chính phủ tiếp tục hỗ trợ xử lý sạt lở 1.000 tỷ đồng từ nguồn vốn dự phòng kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016-2020 và 36 triệu USD từ dự án WB, ADB.
Thực hiện nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ giao, Bộ NN&PTNT đã triển khai một số nội dung về xử lý sạt lở cấp bách bờ sông, bờ biển và xây dựng bản đồ sạt lở vùng ĐBSCL, đưa lên bản đồ trực tuyến (webGIS).
Tuy nhiên, qua thực tiễn cho thấy, các địa phương còn lúng túng trong việc tổ chức thực hiện các dự án xử lý sạt lở cấp bách, nên kết quả đạt được đến nay chưa cao. Một số giải pháp kỹ thuật nếu không được điều chỉnh kịp thời có thể gây mất ổn định công trình, lãng phí trong đầu tư.
Thứ trưởng đưa ra dự báo, năm 2020 lượng phù sa về ĐBSCL sẽ giảm từ 60-65% so với năm 2010. Và nếu theo tốc độ xây dựng hồ, đập như thực tế thì đến năm 2040, lượng phù sa sẽ chỉ còn 3-5%. Với tốc độ này sẽ không còn phù sa và hạn hán, xâm mặn sẽ khốc liệt hơn.
Ông Võ Thành Ngoan, Phó giám đốc Sở NN&PTNN tỉnh Đồng Tháp cho hay, từ năm 2005-2018, Đồng Tháp mất trên 322 ha đất do nước cuốn trôi. Ước tính trên 6.000 dân đang sống trong vành đai có nguy cơ sạt lở, cần phải di dời đến nơi an toàn.
Còn đối với Cà Mau, ông Lê Văn Sử, Phó chủ tịch UBND tỉnh cho biết, năm 2007 đến nay, Cà Mau mất gần 9.000 ha rừng phòng hộ ven biển do sạt lở, ảnh hưởng lớn đến tính mạng và đời sống Nhân dân. Riêng năm 2018 đã sạt lở gần 3.500 m đất ven sông với 27 vị trí sạt lở với chiều dài gần 38 km. Đến nay, Cà Mau đã khắc phục sạt lở gần 18 km với tổng mức đầu tư trên 700 tỷ đồng. Tuy nhiên, cần có giải pháp căn cơ để ổn định lâu dài.
Thứ trưởng cũng cho biết, nhiệm vụ chống biến đổi khí hậu đặt ra hết sức nặng nề. Cục phòng chống thiên tai cần rà soát lại những điểm đặc biệt nghiêm trọng để ưu tiên xử lý. Hơn ai hết, địa phương cần làm tốt công tác đảm bảo an toàn cho dân, công trình phù hợp quy hoạch vùng sinh thái.
Tiếp tục đàm phán với các nước thượng nguồn Mekong nhằm chia sẻ hài hòa lợi ích nguồn nước để giảm thiểu tác động tiêu cực. Đồng thời, đề nghị các địa phương áp dụng công nghệ mới và những giải pháp khác để giảm chi phí. Nếu cứ để như thế này “chúng ta sẽ tự mình chìm trước khi nước biển dâng”, Thứ trưởng Hà Công Tuấn nhấn mạnh.
Hồng Nhung