ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 4-7-25 09:18:50
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM SỰ KIỆN TẬP KẾT RA BẮC (1954-2024)

Bạn cùng trường

Báo Cà Mau Chiếc xuồng giao liên đưa tôi vào con rạch, gọi là Rạch Hàng, con rạch dẫn sâu vào rừng U Minh, để nhập trường, Trường Trung học Kháng chiến Nguyễn Văn Tố.

Ấy là mùa hè năm 1948, những năm đầu kháng chiến chống Pháp, học sinh là những người đã từng tham gia kháng chiến, đã từng đi bộ đội, hoặc cán bộ, nhân viên trong các cơ quan Dân Chính Ðảng của cả chiến trường Nam Bộ.

Khi tôi nghe giọng hát trong trẻo của cô bé tuổi 12 ấy, tuổi thơ trong tôi bỗng bừng dậy, tôi trở lại hồn nhiên là đứa học trò.

Minh hoạ: Minh Tấn

Minh hoạ: Minh Tấn

Tình cờ tôi ngồi cùng một bàn với Ðoàn Thế Hối, hai đứa cùng tuổi và nhỏ người như nhau. Nhìn lên bục giảng thì tôi bên tay mặt, Hối ngồi bên trái. Ðoàn Thế Hối người mảnh khảnh, mái tóc mềm, nước da xanh, nụ cười hiền, nho nhã thư sinh. Nghèo, quần áo hai đứa mặc chung thật khắn khít. Về mặt học hành có điều ngược nhau, Hối rất giỏi Văn, bài văn nào cũng 17, 18 (thang điểm 20), còn tôi thì tệ đến mức có lần chỉ được 0,5 điểm. Ðoàn Thế Hối có cây đàn Banjo nhưng tôi lại đàn khá hơn Hối. Dù dở môn Văn nhưng tôi rất thích văn thơ. Tôi thích giờ văn của thầy Nguyễn Văn Chì, giọng thầy thâm trầm, mỗi lời của thầy đều đọng lại trong lòng tôi. Một hôm thầy bảo:

- Ngoài những bài luận văn của trường, các cháu nên viết thêm nhật ký, hồi ký, nghĩ sao viết vậy, không gò bó theo khuôn khổ, viết xong nộp.

Sau ngày tôi tập kết, Ðoàn Thế Hối vào Sài Gòn hoạt động, anh nhanh chóng nổi tiếng với bút danh Lê Vĩnh Hoà trên các báo: Nhân Loại, Tiến Thủ, Quyền Sống, Bông Lúa, Phụ Nữ Diễn Ðàn; với những truyện ngắn: “Trăng lu”, “Chiếc áo thiên thanh”, “Nước cạn”, “Mưa rơi trên sông”, “Hội banh Xóm Giếng”...

Năm 1959, Lê Vĩnh Hoà bị chính quyền Ngô Ðình Diệm bắt, ngồi tù suốt 5 năm. Năm 1964, ra tù, anh vào chiến trường miền Tây, tiếp tục viết, một loạt truyện ngắn ra đời trên mặt báo của chiến trường: “Những người cùng xóm”, “Chuyện một người săn máy bay”, “Trước đêm tập kết”, “Trông ra tiền tuyến”, “Mấy trang nhật ký trên chiến hào”...

Từ R, tôi gửi một lá thư dài về miền Tây cho Lê Vĩnh Hoà, nhắc lại cây đàn Banjo và nhiều chuyện...

Một năm sau, mùa nước nổi ở chiến trường Ðồng Tháp, tôi nhận được thư của một bạn văn nghệ ở miền Tây cho tôi biết, Lê Vĩnh Hoà đã nhận thư tôi, mừng lắm, chưa kịp viết thư trả lời thì hy sinh trong trận đánh lớn ở Thanh Thuỷ - Xẻo Giá - Cần Thơ, ngày Mồng 7, tháng Giêng năm Ðinh Mùi - 1967.

Nhà văn Lê Vĩnh Hoà đã để lại cho đời nhiều tác phẩm xuất sắc, mang nhiều dấu ấn qua từng thời kỳ của cuộc chiến tranh cứu nước. Với tôi, giọng văn của Lê Vĩnh Hoà như giọng nói của anh, rất quen thuộc với tôi, nó ngọt ngào, nhỏ nhẻ, buồn buồn, dễ vào lòng người.

Khi ra trường, mỗi đứa mỗi ngành công tác, với mỗi tương lai, ai sẽ là ai khó đoán trước được. Xin nói thêm một đứa bạn, Huỳnh Nhựt Minh. Minh cũng là đứa học trò giỏi văn, vừa được điểm cao, thường được thầy đọc cho cả lớp nghe. Cũng như Ðoàn Thế Hối, chắc hẳn Minh cũng sẽ là nhà văn. Nhưng không! Huỳnh Nhựt Minh trở thành người chỉ huy pháo binh... Biết bao bạn bè nữa, kể sao cho hết.

Sau năm 1975, mỗi năm thầy trò Trường Nguyễn Văn Tố đều có buổi họp mặt vào những ngày giáp Tết. Tình thầy trò của Trường Nguyễn Văn Tố thật đặc biệt, vừa chú cháu, vừa thầy trò, vừa đồng chí, thật chan hoà. Và chúng tôi lại hát.

“Học sinh là người Tổ quốc mong cho mai sau...”. Lạ! Ở tuổi 60 mà giọng hát của “bé Thiện”, của Tô Kỳ Phát vẫn trong trẻo, vang vọng, bật cao lên dàn đồng ca. Tiếng hát đưa chúng tôi trở về tuổi học trò.

(Trích từ Ký của NGUYỄN QUANG SÁNG)

 

Nguyễn Bá

 

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Ðài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến - Tiếng nói của khát vọng độc lập, tự do

Đài Nam Bộ Kháng chiến ra đời những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947-1954). Có lúc đóng ở Ðồng Tháp Mười (Long An); có giai đoạn ở Thới Bình, Ðầm Dơi, Ngọc Hiển, U Minh (Cà Mau), hay Kiên Giang, Bạc Liêu; có thời điểm đài đổi tên thành Ðài Tiếng nói Nam Bộ. Tuy vậy, dù ở bất cứ nơi đâu, tên gọi khác nhau, nhưng các thế hệ cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên của đài không ai được đào tạo bài bản về phát thanh nhưng đã làm nên một đài phát thanh vang danh, lừng lẫy; tạo dấu ấn đặc biệt trong lịch sử báo chí Việt Nam nói chung và ngành phát thanh nói riêng. Ðó là tiếng nói của Uỷ ban Nam Bộ Kháng chiến; cầu nối của Ðảng, Bác Hồ với đồng bào Nam Bộ; là ước mong, khát vọng của đồng bào nơi đây về một Việt Nam độc lập, tự do.

Những khó khăn, thách thức của người làm báo trong thời kháng chiến

Mùa khô năm 1964, lần thứ hai tôi theo mẹ từ Bến Tre vào Cà Mau thăm ba tôi đang làm ruộng và dạy học tư ở Kinh Hãng Giữa... Ba tôi bất hợp pháp kể từ năm bác ruột thứ tư của tôi - 1 trong 12 người Việt Minh làng Ba Mỹ bị giặc Pháp bắt chặt đầu ở bót Nhà Việc Mỹ Chánh năm 1946... Lần này, ba tôi không cho tôi trở về quê nữa, vì về ngoải mai mốt lớn lên tụi giặc nó bắt lính... Thế là tôi phải ở lại trong này, thành công dân Cà Mau từ đó.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.