ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 1-6-25 09:40:21
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM SỰ KIỆN TẬP KẾT RA BẮC (1954-2024)

Bạn cùng trường

Báo Cà Mau Chiếc xuồng giao liên đưa tôi vào con rạch, gọi là Rạch Hàng, con rạch dẫn sâu vào rừng U Minh, để nhập trường, Trường Trung học Kháng chiến Nguyễn Văn Tố.

Ấy là mùa hè năm 1948, những năm đầu kháng chiến chống Pháp, học sinh là những người đã từng tham gia kháng chiến, đã từng đi bộ đội, hoặc cán bộ, nhân viên trong các cơ quan Dân Chính Ðảng của cả chiến trường Nam Bộ.

Khi tôi nghe giọng hát trong trẻo của cô bé tuổi 12 ấy, tuổi thơ trong tôi bỗng bừng dậy, tôi trở lại hồn nhiên là đứa học trò.

Minh hoạ: Minh Tấn

Minh hoạ: Minh Tấn

Tình cờ tôi ngồi cùng một bàn với Ðoàn Thế Hối, hai đứa cùng tuổi và nhỏ người như nhau. Nhìn lên bục giảng thì tôi bên tay mặt, Hối ngồi bên trái. Ðoàn Thế Hối người mảnh khảnh, mái tóc mềm, nước da xanh, nụ cười hiền, nho nhã thư sinh. Nghèo, quần áo hai đứa mặc chung thật khắn khít. Về mặt học hành có điều ngược nhau, Hối rất giỏi Văn, bài văn nào cũng 17, 18 (thang điểm 20), còn tôi thì tệ đến mức có lần chỉ được 0,5 điểm. Ðoàn Thế Hối có cây đàn Banjo nhưng tôi lại đàn khá hơn Hối. Dù dở môn Văn nhưng tôi rất thích văn thơ. Tôi thích giờ văn của thầy Nguyễn Văn Chì, giọng thầy thâm trầm, mỗi lời của thầy đều đọng lại trong lòng tôi. Một hôm thầy bảo:

- Ngoài những bài luận văn của trường, các cháu nên viết thêm nhật ký, hồi ký, nghĩ sao viết vậy, không gò bó theo khuôn khổ, viết xong nộp.

Sau ngày tôi tập kết, Ðoàn Thế Hối vào Sài Gòn hoạt động, anh nhanh chóng nổi tiếng với bút danh Lê Vĩnh Hoà trên các báo: Nhân Loại, Tiến Thủ, Quyền Sống, Bông Lúa, Phụ Nữ Diễn Ðàn; với những truyện ngắn: “Trăng lu”, “Chiếc áo thiên thanh”, “Nước cạn”, “Mưa rơi trên sông”, “Hội banh Xóm Giếng”...

Năm 1959, Lê Vĩnh Hoà bị chính quyền Ngô Ðình Diệm bắt, ngồi tù suốt 5 năm. Năm 1964, ra tù, anh vào chiến trường miền Tây, tiếp tục viết, một loạt truyện ngắn ra đời trên mặt báo của chiến trường: “Những người cùng xóm”, “Chuyện một người săn máy bay”, “Trước đêm tập kết”, “Trông ra tiền tuyến”, “Mấy trang nhật ký trên chiến hào”...

Từ R, tôi gửi một lá thư dài về miền Tây cho Lê Vĩnh Hoà, nhắc lại cây đàn Banjo và nhiều chuyện...

Một năm sau, mùa nước nổi ở chiến trường Ðồng Tháp, tôi nhận được thư của một bạn văn nghệ ở miền Tây cho tôi biết, Lê Vĩnh Hoà đã nhận thư tôi, mừng lắm, chưa kịp viết thư trả lời thì hy sinh trong trận đánh lớn ở Thanh Thuỷ - Xẻo Giá - Cần Thơ, ngày Mồng 7, tháng Giêng năm Ðinh Mùi - 1967.

Nhà văn Lê Vĩnh Hoà đã để lại cho đời nhiều tác phẩm xuất sắc, mang nhiều dấu ấn qua từng thời kỳ của cuộc chiến tranh cứu nước. Với tôi, giọng văn của Lê Vĩnh Hoà như giọng nói của anh, rất quen thuộc với tôi, nó ngọt ngào, nhỏ nhẻ, buồn buồn, dễ vào lòng người.

Khi ra trường, mỗi đứa mỗi ngành công tác, với mỗi tương lai, ai sẽ là ai khó đoán trước được. Xin nói thêm một đứa bạn, Huỳnh Nhựt Minh. Minh cũng là đứa học trò giỏi văn, vừa được điểm cao, thường được thầy đọc cho cả lớp nghe. Cũng như Ðoàn Thế Hối, chắc hẳn Minh cũng sẽ là nhà văn. Nhưng không! Huỳnh Nhựt Minh trở thành người chỉ huy pháo binh... Biết bao bạn bè nữa, kể sao cho hết.

Sau năm 1975, mỗi năm thầy trò Trường Nguyễn Văn Tố đều có buổi họp mặt vào những ngày giáp Tết. Tình thầy trò của Trường Nguyễn Văn Tố thật đặc biệt, vừa chú cháu, vừa thầy trò, vừa đồng chí, thật chan hoà. Và chúng tôi lại hát.

“Học sinh là người Tổ quốc mong cho mai sau...”. Lạ! Ở tuổi 60 mà giọng hát của “bé Thiện”, của Tô Kỳ Phát vẫn trong trẻo, vang vọng, bật cao lên dàn đồng ca. Tiếng hát đưa chúng tôi trở về tuổi học trò.

(Trích từ Ký của NGUYỄN QUANG SÁNG)

 

Nguyễn Bá

 

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.