Năm 1954, sau khi Hiệp định Giơnevơ ký kết, Cà Mau được chọn là 1 trong 3 khu vực tập kết, chuyển quân ra Bắc của Nam Bộ. Trong thời gian 200 ngày đêm, Cà Mau bừng lên khí thế của chiến thắng, của đời sống mới thực sự tự do, hạnh phúc trong không khí hoà bình, vui tươi, phấn khởi dưới sự lãnh đạo, tổ chức của chính quyền cách mạng sau 9 năm trường kỳ kháng chiến. Giai đoạn cuối năm 1954, lực lượng tập kết và thân quyến đưa tiễn đổ dồn về vùng ngã ba Chắc Băng, nơi có bến chuyển quân ra tàu lớn ở vàm sông Ông Ðốc.
Bên dòng Chắc Băng. Ảnh: P.H.N
Địa danh Chắc Băng gắn với nhiều giai thoại thời “Gia Long bôn tẩu” mà cuốn “Bạc Liêu xưa” của tác giả Huỳnh Minh cho biết rằng, thời chạy trốn quân Tây Sơn, đến đây thì Nguyễn Ánh lâm bệnh nặng, trăng trối “chắc trẫm băng hà”; hoặc theo lý giải của Nhà văn Sơn Nam, đọc trại từ tiếng Khmer “chap tung”, nghĩa là chim chàng bè, loại chim có nhiều ở vùng đất này. Ðến năm 1919, nhận thấy vị trí chiến lược của dòng thuỷ đạo này, Pháp tiến hành cải tạo, mở rộng và hình thành tên gọi kênh xáng Chắc Băng, dài khoảng 40 cây số, nối sông Cái Lớn (Vĩnh Thuận, Kiên Giang) với sông Trèm Trẹm (Thới Bình, Cà Mau).
Dẫn giải thêm để thấy vị trí của bến chuyển quân Chắc Băng là vô cùng thuận lợi, bởi chỉ cần tới sông Trèm Trẹm, rẽ trái là thẳng đến vàm sông Ông Ðốc, nơi có các tàu lớn chuyển quân ra Bắc.
Ông Phạm Văn Diễn, Chủ tịch UBND xã Trí Phải, thông tin: “Thông qua tư liệu lịch sử và những chứng nhân kể lại, vùng Trí Phải ven kênh xáng Chắc Băng là bến chuyển quân lớn tại Cà Mau trong sự kiện 200 ngày đêm tập kết ra Bắc. Càng gần đến ngày chia tay thì nơi đây càng nhộn nhịp lực lượng tập kết và thân quyến tiễn đưa”.
Tại Chắc Băng, Ban Chuyển quân của ta và Pháp cùng phối hợp công việc cho các chuyến trung chuyển. Cứ cách khoảng 7-10 ngày sẽ có một chuyến chuyển quân ra bến lớn ở vàm sông Ông Ðốc. Ở kênh xáng Chắc Băng, ta tổ chức xây dựng bến tàu dã chiến, không làm cầu tàu, bởi trưng dụng tàu đổ quân của Pháp, chỉ cần quay mũi tàu, hạ bửng cặp bờ làm cầu di chuyển thuận lợi.
Chắc Băng nhộn nhịp hẳn khi gần đến ngày chia tay. Một khu lán dài mấy công đất được cất ngay bên dòng Chắc Băng cho lực lượng tập kết. Nhân sự vào khu vực này nghĩa là đã có danh sách “đi”, chỉ chờ chuyến trung chuyển điểm danh là lên đường ra các tàu lớn của Ba Lan, Liên Xô đang đợi sẵn ở sông Ông Ðốc. Trong thời gian chờ đợi, bà con vùng Trí Phải đã niềm nở đón tiếp lực lượng tập kết và thân quyến trong tình đồng bào, đồng chí ruột thịt.
Bà Nguyễn Thị Mang, Ấp 10, xã Trí Phải, vẫn nhớ về chuyện người cha của mình: “Cha tôi, ông Nguyễn Văn Mênh, dân cố cựu Trí Phải này, hồi tập kết đã mua hẳn con trâu về mổ thịt để cung cấp lương thực cho lực lượng đi tập kết”. Theo lời người cha đã quá cố kể lại, bà Mang cho biết: “Lúc đó, nhà ai cũng nghèo như ai, chỉ có tấm lòng với cách mạng, với bộ đội là lớn hơn hết thảy. Không chỉ hồi tập kết thôi đâu, gia đình tôi sau này cũng là nơi nuôi dưỡng, cưu mang cho nhiều cán bộ cách mạng trong kháng chiến chống Mỹ”.
Bà Nguyễn Thị Mang (con ông Nguyễn Văn Mênh, người mổ trâu tiếp tế lương thực cho lực lượng tập kết) hiện nay có sinh kế chính là nghề đan sọt gia công. Bên cạnh bà Mang là con gái út Nguyễn Thị Thu Lan vừa tốt nghiệp THPT và nhọc nhằn ước mơ được học tiếp.
Hỏi thêm về đời sống hiện nay, bà Mang tâm tình: “Cha tôi không đòi hỏi gì, tôi có mấy bận làm giấy tờ để công nhận chính sách cho cha nhưng không được. Ngặt cái nhà tôi giờ cũng khó khăn, đứa con gái út vừa tốt nghiệp THPT điểm khá lắm, mà chắc không học tiếp lên được nữa”... Em Nguyễn Thị Thu Lan, con gái bà Mang, chia sẻ: “Chuyện ông ngoại hồi trước góp sức cho cách mạng mẹ vẫn hay nhắc, em tự hào lắm. Thi tốt nghiệp THPT vừa rồi, điểm bình quân các môn của em đạt gần 7,5, tổng điểm hết là 44,5 điểm. Nhưng chắc em phải nghỉ một thời gian, đi làm thêm để kiếm tiền lo cho việc học tiếp. Mẹ em hiện chỉ có nghề đan sọt gia công kiếm đồng ra, đồng vô thôi”...
Chúng tôi thành kính thắp nén nhang cho má Tư Tố, như cách thân thương của bà con vùng Trí Phải gọi bà Lê Thị Sảnh, người dâng tặng cây vú sữa miền Nam đến Bác Hồ. Ông Lê Thanh Hùng, cháu nội của bà Lê Thị Sảnh, kể: “Anh em tôi theo họ bà nội, thờ tự căn nhà hương hoả này. Hồi sinh thời, thỉnh thoảng lắm bà mới kể về việc gởi bộ đội đi tập kết cây vú sữa để kính tặng Bác Hồ. Cây vú sữa đó bà nội tôi bầu trong cái bình tích uống trà sứt vòi, tha thiết nhắn gởi cán bộ tập kết (người nhận là Chỉ huy Ðại đội 370 Pháo binh, Tiểu đoàn 307) tấm lòng mình: “Ra ngoài đó, các con thưa với Cụ Hồ, thưa với cô bác miền Bắc rằng, bà con trong này luôn hướng về Cụ Hồ, hướng về miền Bắc”.
Con cháu bà Lê Thị Sảnh vẫn trồng cây vú sữa để nhắc nhớ về tổ tiên, nguồn cội.
Cây vú sữa của má Tư Tố đã trở thành biểu tượng bất tử, thiêng liêng của tấm lòng, tình cảm mà Nhân dân miền Nam gởi đến Bác Hồ. Trong quãng thời gian học tập tại Thủ đô, được tận mắt nhìn cây vú sữa miền Nam do bà má Trí Phải gởi, tôi, một người con Cà Mau, bồi hồi xúc động. Bên Nhà sàn của Bác, được kể về tình cảm lớn lao của Bác dành cho cây vú sữa, càng thêm thấm thía nỗi niềm của Người: “Miền Nam luôn ở trong trái tim tôi”.
Sau này (năm 1995), cây vú sữa miền Nam bên Bác đã được chiết nhánh, đem về trồng, chăm sóc tại Phủ thờ Bác tại xã Trí Lực hiện nay. Nghe thông tin xã Trí Phải dự định xây dựng tuyến đường trồng toàn cây vú sữa, chúng tôi khấp khởi mừng, đó cũng là một cách hay để lưu giữ, tái hiện những câu chuyện đẹp của lịch sử quê hương.
Con cháu má Tư Tố vẫn trồng vú sữa trước nhà, như cách để tưởng nhớ về nguồn cội. Em Nguyễn Quốc Khang, chuẩn bị lên lớp 7 (gọi má Tư Tố là bà sơ) vịn nhành vú sữa trổ bông, cười tươi khoe: “Ở lớp nghe thầy cô nói về cây vú sữa miền Nam, con nói với các bạn rằng cây vú sữa đó của bà sơ tui gởi ra tặng Bác Hồ trong sự kiện tập kết ra Bắc, bạn nào cũng trầm trồ hết”.
Dòng Chắc Băng vẫn mải miết chảy cùng với thời gian. Hết lớp người này lại đến lớp người khác ở vùng đất Trí Phải tiếp nối tấm lòng sắt son với Ðảng, với cách mạng. Mút tầm mắt trên dòng nước thẳng, trầm tích thời gian, những điều hiện hữu cùng gợi lên những nhớ nhung, suy tư không dứt...
Ghi chép của Phạm Hải Nguyên