ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 1-6-25 07:22:21
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Bên dòng Chắc Băng

Báo Cà Mau Năm 1954, sau khi Hiệp định Giơnevơ ký kết, Cà Mau được chọn là 1 trong 3 khu vực tập kết, chuyển quân ra Bắc của Nam Bộ. Trong thời gian 200 ngày đêm, Cà Mau bừng lên khí thế của chiến thắng, của đời sống mới thực sự tự do, hạnh phúc trong không khí hoà bình, vui tươi, phấn khởi dưới sự lãnh đạo, tổ chức của chính quyền cách mạng sau 9 năm trường kỳ kháng chiến. Giai đoạn cuối năm 1954, lực lượng tập kết và thân quyến đưa tiễn đổ dồn về vùng ngã ba Chắc Băng, nơi có bến chuyển quân ra tàu lớn ở vàm sông Ông Ðốc.

Bên dòng Chắc Băng. Ảnh: P.H.N

Địa danh Chắc Băng gắn với nhiều giai thoại thời “Gia Long bôn tẩu” mà cuốn “Bạc Liêu xưa” của tác giả Huỳnh Minh cho biết rằng, thời chạy trốn quân Tây Sơn, đến đây thì Nguyễn Ánh lâm bệnh nặng, trăng trối “chắc trẫm băng hà”; hoặc theo lý giải của Nhà văn Sơn Nam, đọc trại từ tiếng Khmer “chap tung”, nghĩa là chim chàng bè, loại chim có nhiều ở vùng đất này. Ðến năm 1919, nhận thấy vị trí chiến lược của dòng thuỷ đạo này, Pháp tiến hành cải tạo, mở rộng và hình thành tên gọi kênh xáng Chắc Băng, dài khoảng 40 cây số, nối sông Cái Lớn (Vĩnh Thuận, Kiên Giang) với sông Trèm Trẹm (Thới Bình, Cà Mau).

Dẫn giải thêm để thấy vị trí của bến chuyển quân Chắc Băng là vô cùng thuận lợi, bởi chỉ cần tới sông Trèm Trẹm, rẽ trái là thẳng đến vàm sông Ông Ðốc, nơi có các tàu lớn chuyển quân ra Bắc.

Ông Phạm Văn Diễn, Chủ tịch UBND xã Trí Phải, thông tin: “Thông qua tư liệu lịch sử và những chứng nhân kể lại, vùng Trí Phải ven kênh xáng Chắc Băng là bến chuyển quân lớn tại Cà Mau trong sự kiện 200 ngày đêm tập kết ra Bắc. Càng gần đến ngày chia tay thì nơi đây càng nhộn nhịp lực lượng tập kết và thân quyến tiễn đưa”.

Tại Chắc Băng, Ban Chuyển quân của ta và Pháp cùng phối hợp công việc cho các chuyến trung chuyển. Cứ cách khoảng 7-10 ngày sẽ có một chuyến chuyển quân ra bến lớn ở vàm sông Ông Ðốc. Ở kênh xáng Chắc Băng, ta tổ chức xây dựng bến tàu dã chiến, không làm cầu tàu, bởi trưng dụng tàu đổ quân của Pháp, chỉ cần quay mũi tàu, hạ bửng cặp bờ làm cầu di chuyển thuận lợi.

Chắc Băng nhộn nhịp hẳn khi gần đến ngày chia tay. Một khu lán dài mấy công đất được cất ngay bên dòng Chắc Băng cho lực lượng tập kết. Nhân sự vào khu vực này nghĩa là đã có danh sách “đi”, chỉ chờ chuyến trung chuyển điểm danh là lên đường ra các tàu lớn của Ba Lan, Liên Xô đang đợi sẵn ở sông Ông Ðốc. Trong thời gian chờ đợi, bà con vùng Trí Phải đã niềm nở đón tiếp lực lượng tập kết và thân quyến trong tình đồng bào, đồng chí ruột thịt.

Bà Nguyễn Thị Mang, Ấp 10, xã Trí Phải, vẫn nhớ về chuyện người cha của mình: “Cha tôi, ông Nguyễn Văn Mênh, dân cố cựu Trí Phải này, hồi tập kết đã mua hẳn con trâu về mổ thịt để cung cấp lương thực cho lực lượng đi tập kết”. Theo lời người cha đã quá cố kể lại, bà Mang cho biết: “Lúc đó, nhà ai cũng nghèo như ai, chỉ có tấm lòng với cách mạng, với bộ đội là lớn hơn hết thảy. Không chỉ hồi tập kết thôi đâu, gia đình tôi sau này cũng là nơi nuôi dưỡng, cưu mang cho nhiều cán bộ cách mạng trong kháng chiến chống Mỹ”.

Bà Nguyễn Thị Mang (con ông Nguyễn Văn Mênh, người mổ trâu tiếp tế lương thực cho lực lượng tập kết) hiện nay có sinh kế chính là nghề đan sọt gia công. Bên cạnh bà Mang là con gái út Nguyễn Thị Thu Lan vừa tốt nghiệp THPT và nhọc nhằn ước mơ được học tiếp.   

Hỏi thêm về đời sống hiện nay, bà Mang tâm tình: “Cha tôi không đòi hỏi gì, tôi có mấy bận làm giấy tờ để công nhận chính sách cho cha nhưng không được. Ngặt cái nhà tôi giờ cũng khó khăn, đứa con gái út vừa tốt nghiệp THPT điểm khá lắm, mà chắc không học tiếp lên được nữa”... Em Nguyễn Thị Thu Lan, con gái bà Mang, chia sẻ: “Chuyện ông ngoại hồi trước góp sức cho cách mạng mẹ vẫn hay nhắc, em tự hào lắm. Thi tốt nghiệp THPT vừa rồi, điểm bình quân các môn của em đạt gần 7,5, tổng điểm hết là 44,5 điểm. Nhưng chắc em phải nghỉ một thời gian, đi làm thêm để kiếm tiền lo cho việc học tiếp. Mẹ em hiện chỉ có nghề đan sọt gia công kiếm đồng ra, đồng vô thôi”...

Chúng tôi thành kính thắp nén nhang cho má Tư Tố, như cách thân thương của bà con vùng Trí Phải gọi bà Lê Thị Sảnh, người dâng tặng cây vú sữa miền Nam đến Bác Hồ. Ông Lê Thanh Hùng, cháu nội của bà Lê Thị Sảnh, kể: “Anh em tôi theo họ bà nội, thờ tự căn nhà hương hoả này. Hồi sinh thời, thỉnh thoảng lắm bà mới kể về việc gởi bộ đội đi tập kết cây vú sữa để kính tặng Bác Hồ. Cây vú sữa đó bà nội tôi bầu trong cái bình tích uống trà sứt vòi, tha thiết nhắn gởi cán bộ tập kết (người nhận là Chỉ huy Ðại đội 370 Pháo binh, Tiểu đoàn 307) tấm lòng mình: “Ra ngoài đó, các con thưa với Cụ Hồ, thưa với cô bác miền Bắc rằng, bà con trong này luôn hướng về Cụ Hồ, hướng về miền Bắc”.

Con cháu bà Lê Thị Sảnh vẫn trồng cây vú sữa để nhắc nhớ về tổ tiên, nguồn cội. 

Cây vú sữa của má Tư Tố đã trở thành biểu tượng bất tử, thiêng liêng của tấm lòng, tình cảm mà Nhân dân miền Nam gởi đến Bác Hồ. Trong quãng thời gian học tập tại Thủ đô, được tận mắt nhìn cây vú sữa miền Nam do bà má Trí Phải gởi, tôi, một người con Cà Mau, bồi hồi xúc động. Bên Nhà sàn của Bác, được kể về tình cảm lớn lao của Bác dành cho cây vú sữa, càng thêm thấm thía nỗi niềm của Người: “Miền Nam luôn ở trong trái tim tôi”.

Sau này (năm 1995), cây vú sữa miền Nam bên Bác đã được chiết nhánh, đem về trồng, chăm sóc tại Phủ thờ Bác tại xã Trí Lực hiện nay. Nghe thông tin xã Trí Phải dự định xây dựng tuyến đường trồng toàn cây vú sữa, chúng tôi khấp khởi mừng, đó cũng là một cách hay để lưu giữ, tái hiện những câu chuyện đẹp của lịch sử quê hương.

Con cháu má Tư Tố vẫn trồng vú sữa trước nhà, như cách để tưởng nhớ về nguồn cội. Em Nguyễn Quốc Khang, chuẩn bị lên lớp 7 (gọi má Tư Tố là bà sơ) vịn nhành vú sữa trổ bông, cười tươi khoe: “Ở lớp nghe thầy cô nói về cây vú sữa miền Nam, con nói với các bạn rằng cây vú sữa đó của bà sơ tui gởi ra tặng Bác Hồ trong sự kiện tập kết ra Bắc, bạn nào cũng trầm trồ hết”.

Dòng Chắc Băng vẫn mải miết chảy cùng với thời gian. Hết lớp người này lại đến lớp người khác ở vùng đất Trí Phải tiếp nối tấm lòng sắt son với Ðảng, với cách mạng. Mút tầm mắt trên dòng nước thẳng, trầm tích thời gian, những điều hiện hữu cùng gợi lên những nhớ nhung, suy tư không dứt...

 

Ghi chép của Phạm Hải Nguyên

 

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.