ĐT: 0939.923988
Thứ năm, 27-3-25 07:10:55
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Bên dòng Chắc Băng

Báo Cà Mau Năm 1954, sau khi Hiệp định Giơnevơ ký kết, Cà Mau được chọn là 1 trong 3 khu vực tập kết, chuyển quân ra Bắc của Nam Bộ. Trong thời gian 200 ngày đêm, Cà Mau bừng lên khí thế của chiến thắng, của đời sống mới thực sự tự do, hạnh phúc trong không khí hoà bình, vui tươi, phấn khởi dưới sự lãnh đạo, tổ chức của chính quyền cách mạng sau 9 năm trường kỳ kháng chiến. Giai đoạn cuối năm 1954, lực lượng tập kết và thân quyến đưa tiễn đổ dồn về vùng ngã ba Chắc Băng, nơi có bến chuyển quân ra tàu lớn ở vàm sông Ông Ðốc.

Bên dòng Chắc Băng. Ảnh: P.H.N

Địa danh Chắc Băng gắn với nhiều giai thoại thời “Gia Long bôn tẩu” mà cuốn “Bạc Liêu xưa” của tác giả Huỳnh Minh cho biết rằng, thời chạy trốn quân Tây Sơn, đến đây thì Nguyễn Ánh lâm bệnh nặng, trăng trối “chắc trẫm băng hà”; hoặc theo lý giải của Nhà văn Sơn Nam, đọc trại từ tiếng Khmer “chap tung”, nghĩa là chim chàng bè, loại chim có nhiều ở vùng đất này. Ðến năm 1919, nhận thấy vị trí chiến lược của dòng thuỷ đạo này, Pháp tiến hành cải tạo, mở rộng và hình thành tên gọi kênh xáng Chắc Băng, dài khoảng 40 cây số, nối sông Cái Lớn (Vĩnh Thuận, Kiên Giang) với sông Trèm Trẹm (Thới Bình, Cà Mau).

Dẫn giải thêm để thấy vị trí của bến chuyển quân Chắc Băng là vô cùng thuận lợi, bởi chỉ cần tới sông Trèm Trẹm, rẽ trái là thẳng đến vàm sông Ông Ðốc, nơi có các tàu lớn chuyển quân ra Bắc.

Ông Phạm Văn Diễn, Chủ tịch UBND xã Trí Phải, thông tin: “Thông qua tư liệu lịch sử và những chứng nhân kể lại, vùng Trí Phải ven kênh xáng Chắc Băng là bến chuyển quân lớn tại Cà Mau trong sự kiện 200 ngày đêm tập kết ra Bắc. Càng gần đến ngày chia tay thì nơi đây càng nhộn nhịp lực lượng tập kết và thân quyến tiễn đưa”.

Tại Chắc Băng, Ban Chuyển quân của ta và Pháp cùng phối hợp công việc cho các chuyến trung chuyển. Cứ cách khoảng 7-10 ngày sẽ có một chuyến chuyển quân ra bến lớn ở vàm sông Ông Ðốc. Ở kênh xáng Chắc Băng, ta tổ chức xây dựng bến tàu dã chiến, không làm cầu tàu, bởi trưng dụng tàu đổ quân của Pháp, chỉ cần quay mũi tàu, hạ bửng cặp bờ làm cầu di chuyển thuận lợi.

Chắc Băng nhộn nhịp hẳn khi gần đến ngày chia tay. Một khu lán dài mấy công đất được cất ngay bên dòng Chắc Băng cho lực lượng tập kết. Nhân sự vào khu vực này nghĩa là đã có danh sách “đi”, chỉ chờ chuyến trung chuyển điểm danh là lên đường ra các tàu lớn của Ba Lan, Liên Xô đang đợi sẵn ở sông Ông Ðốc. Trong thời gian chờ đợi, bà con vùng Trí Phải đã niềm nở đón tiếp lực lượng tập kết và thân quyến trong tình đồng bào, đồng chí ruột thịt.

Bà Nguyễn Thị Mang, Ấp 10, xã Trí Phải, vẫn nhớ về chuyện người cha của mình: “Cha tôi, ông Nguyễn Văn Mênh, dân cố cựu Trí Phải này, hồi tập kết đã mua hẳn con trâu về mổ thịt để cung cấp lương thực cho lực lượng đi tập kết”. Theo lời người cha đã quá cố kể lại, bà Mang cho biết: “Lúc đó, nhà ai cũng nghèo như ai, chỉ có tấm lòng với cách mạng, với bộ đội là lớn hơn hết thảy. Không chỉ hồi tập kết thôi đâu, gia đình tôi sau này cũng là nơi nuôi dưỡng, cưu mang cho nhiều cán bộ cách mạng trong kháng chiến chống Mỹ”.

Bà Nguyễn Thị Mang (con ông Nguyễn Văn Mênh, người mổ trâu tiếp tế lương thực cho lực lượng tập kết) hiện nay có sinh kế chính là nghề đan sọt gia công. Bên cạnh bà Mang là con gái út Nguyễn Thị Thu Lan vừa tốt nghiệp THPT và nhọc nhằn ước mơ được học tiếp.   

Hỏi thêm về đời sống hiện nay, bà Mang tâm tình: “Cha tôi không đòi hỏi gì, tôi có mấy bận làm giấy tờ để công nhận chính sách cho cha nhưng không được. Ngặt cái nhà tôi giờ cũng khó khăn, đứa con gái út vừa tốt nghiệp THPT điểm khá lắm, mà chắc không học tiếp lên được nữa”... Em Nguyễn Thị Thu Lan, con gái bà Mang, chia sẻ: “Chuyện ông ngoại hồi trước góp sức cho cách mạng mẹ vẫn hay nhắc, em tự hào lắm. Thi tốt nghiệp THPT vừa rồi, điểm bình quân các môn của em đạt gần 7,5, tổng điểm hết là 44,5 điểm. Nhưng chắc em phải nghỉ một thời gian, đi làm thêm để kiếm tiền lo cho việc học tiếp. Mẹ em hiện chỉ có nghề đan sọt gia công kiếm đồng ra, đồng vô thôi”...

Chúng tôi thành kính thắp nén nhang cho má Tư Tố, như cách thân thương của bà con vùng Trí Phải gọi bà Lê Thị Sảnh, người dâng tặng cây vú sữa miền Nam đến Bác Hồ. Ông Lê Thanh Hùng, cháu nội của bà Lê Thị Sảnh, kể: “Anh em tôi theo họ bà nội, thờ tự căn nhà hương hoả này. Hồi sinh thời, thỉnh thoảng lắm bà mới kể về việc gởi bộ đội đi tập kết cây vú sữa để kính tặng Bác Hồ. Cây vú sữa đó bà nội tôi bầu trong cái bình tích uống trà sứt vòi, tha thiết nhắn gởi cán bộ tập kết (người nhận là Chỉ huy Ðại đội 370 Pháo binh, Tiểu đoàn 307) tấm lòng mình: “Ra ngoài đó, các con thưa với Cụ Hồ, thưa với cô bác miền Bắc rằng, bà con trong này luôn hướng về Cụ Hồ, hướng về miền Bắc”.

Con cháu bà Lê Thị Sảnh vẫn trồng cây vú sữa để nhắc nhớ về tổ tiên, nguồn cội. 

Cây vú sữa của má Tư Tố đã trở thành biểu tượng bất tử, thiêng liêng của tấm lòng, tình cảm mà Nhân dân miền Nam gởi đến Bác Hồ. Trong quãng thời gian học tập tại Thủ đô, được tận mắt nhìn cây vú sữa miền Nam do bà má Trí Phải gởi, tôi, một người con Cà Mau, bồi hồi xúc động. Bên Nhà sàn của Bác, được kể về tình cảm lớn lao của Bác dành cho cây vú sữa, càng thêm thấm thía nỗi niềm của Người: “Miền Nam luôn ở trong trái tim tôi”.

Sau này (năm 1995), cây vú sữa miền Nam bên Bác đã được chiết nhánh, đem về trồng, chăm sóc tại Phủ thờ Bác tại xã Trí Lực hiện nay. Nghe thông tin xã Trí Phải dự định xây dựng tuyến đường trồng toàn cây vú sữa, chúng tôi khấp khởi mừng, đó cũng là một cách hay để lưu giữ, tái hiện những câu chuyện đẹp của lịch sử quê hương.

Con cháu má Tư Tố vẫn trồng vú sữa trước nhà, như cách để tưởng nhớ về nguồn cội. Em Nguyễn Quốc Khang, chuẩn bị lên lớp 7 (gọi má Tư Tố là bà sơ) vịn nhành vú sữa trổ bông, cười tươi khoe: “Ở lớp nghe thầy cô nói về cây vú sữa miền Nam, con nói với các bạn rằng cây vú sữa đó của bà sơ tui gởi ra tặng Bác Hồ trong sự kiện tập kết ra Bắc, bạn nào cũng trầm trồ hết”.

Dòng Chắc Băng vẫn mải miết chảy cùng với thời gian. Hết lớp người này lại đến lớp người khác ở vùng đất Trí Phải tiếp nối tấm lòng sắt son với Ðảng, với cách mạng. Mút tầm mắt trên dòng nước thẳng, trầm tích thời gian, những điều hiện hữu cùng gợi lên những nhớ nhung, suy tư không dứt...

 

Ghi chép của Phạm Hải Nguyên

 

Thân thương hai tiếng Cà Mau

Cà Mau không chỉ là điểm cuối của đất nước, nơi ai cũng mong một lần được ghi dấu bước chân mình tại cột mốc toạ độ, mà còn là vùng đất để lại trong tim nhiều người những tình cảm khó quên.

Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng - Lịch sử không thể lãng quên

Tôi đồng tình với ông Sáu Sơn (ông Ðỗ Văn Nghiệp, tác giả chủ trì đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh “Ðiều tra, sưu tầm chứng tích tội ác Mỹ - Nguỵ tại Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng” cách đây 20 năm), rằng: “Khép lại quá khứ, không có nghĩa là lãng quên quá khứ. Bài học đúc kết từ quá khứ là bài học bằng xương máu, sẽ có nhiều bổ ích cho hiện tại và tương lai”.

Bến Dựa một lần về

Bến Dựa chỉ là một đoạn sông ngắn, hằng ngày cần mẫn làm người trung chuyển đưa nước lớn về ngã ba Cái Đuốc, ngọn Cái Ngay; tiễn nước ròng ra Cái Nháp, đổ ra ngã ba Tam Giang, xuôi về biển cả. Khu rừng bên bờ Đông Bến Dựa nơi cơ quan Huyện uỷ Tư Kháng (Đầm Dơi ngày nay), làng rừng Huỳnh Ngọc Điệp tồn tại.

Chiều Sài Gòn

Tựa bài viết “Chiều Sài Gòn” nghe như chơi vơi, rất xưa, bởi Sài Gòn - Gia Ðịnh đã có hơn 300 năm tuổi, thì đồng nghĩa cũng có hơn một triệu buổi chiều. Nhưng “Chiều Sài Gòn” tôi viết đây chỉ là chiều 30/4/1975, buổi chiều đầu tiên “Sài Gòn ơi ta đã về đây” như lời bài hát một thời có sức hút mạnh mẽ.

Huyền thoại biệt động thành Cà Mau

Thị xã Cà Mau những năm cuối thập niên 1950, dưới chế độ Mỹ - Diệm, không khí ngột ngạt bởi những cuộc càn quét, bắt bớ. Đám cảnh sát mật vụ, lính bảo an lùng sục khắp nơi, ráo riết truy lùng những người kháng chiến cũ, những người mà chúng nghi là "Việt cộng nằm vùng".

Thăm địa chỉ đỏ

Di tích Hồng Anh Thư Quán (số 43, đường Phạm Văn Ký, Phường 2, TP Cà Mau) là một trong những di tích lịch sử hiếm hoi ghi dấu chặng đường cách mạng của người Cà Mau trước năm 1930. Hồng Anh Thư Quán được công nhận Di tích lịch sử - văn hoá cấp Quốc gia ngày 4/8/1992.

Tri ân người mở cõi

Ðầu xuân năm nay tôi được dự lễ khánh thành khu mộ thân tộc ông bà Phạm Hữu Liêm - Lê Thị Liễu, tại ấp Bàu Vũng, xã Tân Hưng, huyện Cái Nước. Chung quanh khu nghĩa mộ có mấy công trình phụ nhưng ý nghĩa đáng để mọi người suy ngẫm. Ðó là hồ sen, tuy diện tích không lớn nhưng ông Liêm giải thích sen là “Quốc hoa” của dân tộc Việt Nam, “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Phía tay phải là một hồ khác để nuôi cá các loại, chim le le và vịt trời. Phía sau công trình là một bờ cây đước xanh rờn, cao lớn.

Thêm hiện vật quý thời chống Pháp

Vừa qua, trong chuyến công tác tại TP Hồ Chí Minh, Bảo tàng tỉnh Cà Mau vinh dự được tiếp nhận một số hiện vật vô cùng quý giá, gồm 47 hình ảnh và 11 hiện vật liên quan đến 2 nhân vật lịch sử nổi tiếng của tỉnh Cà Mau, là Trần Văn Đại (Bí thư Tỉnh uỷ 1939-1940) và Trần Văn Thời (Bí thư Tỉnh uỷ 1940-1941). Toàn bộ số hiện vật này được ông Trần Hoà Bình, con trai của ông Trần Văn Đại (Tám Đại) hiến tặng.

Ba ông già tuổi tỵ

Ðó là ba ông già cùng làm ở Xưởng Quân giới (XQG) Cà Mau thời kháng chiến chống Mỹ. Nói về XQG này thì những người cùng thời, tham gia kháng chiến ở Cà Mau, hầu như ai cũng biết. Họ hay gọi là xưởng ông Ba Thợ Rèn (thường gọi là Ba Lò Rèn), vì ông Ba Thợ Rèn (Nguyễn Trung Thành) là người chịu trách nhiệm lập xưởng (đầu năm 1960) và rất nổi tiếng với việc sản xuất đạn pháo lăn-xà-bom, được tuyên dương anh hùng ngay đợt đầu tiên trong kháng chiến chống Mỹ (năm 1965); xưởng cũng hai lần được tuyên dương anh hùng.

Đi B

Nhà Bác sĩ Nguyễn Văn Thể nằm trên đường Hoàng Diệu, Phường 2, TP Cà Mau. Gian trước dành một khoảng khiêm tốn làm phòng mạch, thỉnh thoảng có vài bệnh nhân quen tới khám. Kế trong là bàn tiếp khách. Khắp phòng treo khá nhiều tranh ảnh nghệ thuật. Một cây đàn trên giá. Khi không có bệnh nhân thì ông thường ôm đàn, phong cách rất nghệ sĩ, và ông cũng thích giao du với giới văn nghệ sĩ Cà Mau.