ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 8-6-25 00:26:21
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Câu chuyện về chiếc khăn tay

Báo Cà Mau Một buổi sáng, đang ngồi đọc báo bỗng nghe tiếng gõ cửa, tôi vội vàng bước ra. Nam, thằng bạn chiến đấu hồi ở trong B bắt thần xuất hiện làm tôi ngớ ra.

Một buổi sáng, đang ngồi đọc báo bỗng nghe tiếng gõ cửa, tôi vội vàng bước ra. Nam, thằng bạn chiến đấu hồi ở trong B bắt thần xuất hiện làm tôi ngớ ra.

- Chào anh Sáu - anh khoẻ không? Nhân tiện ra đây họp tôi ghé thăm anh.

- Trời đất ơi! Bao nhiêu năm mất hút, tưởng là ông nội quên tôi rồi! Ai về cho cậu biết tôi ở đây mà tìm đó? Thôi vô đây - vô đây! Vợ con mình đi về bên ngoại, ở nhà một mình. Hai đứa tha hồ mà bù khú chuyện trò cho "đã" nghe...

Nữ thanh niên xung phong cán thương qua rừng. (Ảnh mang tính chất minh hoạ).        Ảnh: TL

Hai đứa chúng tôi ở chung đại đội thực binh từ miền Bắc vào, được bổ sung vào Sư đoàn 9 miền Ðông Nam Bộ. Trong trận đánh Cần Ðâm trên lộ 13 năm 1967, cả hai đều bị thương phải vào viện. Sau khi ra viện, mỗi đứa đi về một nơi, từ đó không một lần gặp lại. Hôm nay, gặp nhau biết bao điều tâm sự, câu chuyện cứ trào ra như suối chảy. Hỏi han nhau về đời sống, về vợ con, công việc và ôn lại những kỷ niệm xưa một thời cùng chiến đấu bên nhau. Nhắc đến chuyện hai đứa cùng bị thương và cùng vào viện, bỗng Nam hỏi tôi:

- Anh Sáu đã tìm ra cô thanh niên xung phong có chiếc khăn tay chưa?

Tôi buồn rầu lắc đầu. Và lập tức câu chuyện về chiếc khăn tay hiện về trong tôi mặc dù đã trải qua trên 30 năm về trước. Vào mùa mưa năm 1966, Trung đoàn 2 chúng tôi thuộc Sư đoàn 9 được lệnh phục kích đoàn xe của địch ở Cần Ðâm trên lộ 13. Giữa lúc trận đánh đang xảy ra ác liệt thì một mảnh đạn pháo găm vào đùi tôi. Tôi lảo đảo, cố lê được mấy bước rồi ngất đi vì vết thương ra nhiều máu quá. Tôi được chuyển về Trạm Quân y Trung đoàn. Sau khi sơ cứu, tôi được chuyển ngay đêm hôm đó về Quân Y viện đóng ở bên kia sông Sài Gòn. Cáng thương của tôi do 2 cô nữ thanh niên xung phong phụ trách (lẽ ra phải 4 người để thay đổi cho nhau). Ðêm đó mưa như trút nước. Trời tối đen. Ðường từ tuyến trung đoàn đến Trạm chuyển thương CT.5 rất khó đi.

Ðường rừng lầy lội qua những dốc trơn như mỡ. Mưa mỗi lúc một to, gió ào ào làm những cành cây khô (bị chất độc hoá học huỷ hoại) gãy răng rắc. Thỉnh thoảng lại một tia chớp loé sáng. Tiếng đại bác từ các trận địa dã chiến của giặc chốc chốc lại nổ đoành đoành. Chúng nó bắn vu vơ suốt đêm. Quãng đường chuyển thương phải lội qua con suối nhỏ, qua cầu dây bắc qua sông Sài Gòn, đi thật gian nan. 2 cô lấy ni-lông choàng phủ lên cáng cho tôi, còn bản thân thì ướt sũng, lần từng bước, từng bước mà đi trong đêm mưa. Có lúc trượt chân sắp té lại gượng dậy. Cáng thì nặng, người thì thấp, mỗi khi qua suối lại phải nhón người lên cho khỏi ướt võng. 2 người đi suốt đoạn đường không nghỉ, chốc chốc lại hỏi tôi:

- Anh có bị ướt không? Anh có mệt lắm không? Cố ráng chịu tý chút, sắp đến nơi rồi.

Tôi gượng trả lời: Không hề gì - tôi chỉ mệt ít thôi! Chiếc cáng lại tiếp tục đi. Ðược nửa đường, mưa bắt đầu nhẹ hạt rồi trời tạnh hẳn. 2 cô dừng lại gác 1 đầu cáng lên cành cây bên đường, còn đầu kia có chiếc nạng chống. Một cô mở tấm ni-lông ra xem, vừa rọi đèn pin, vừa nói với cô kia:

- May quá! Không ướt tý nào cả mầy ạ!

Nhưng khi cô rọi đèn pin vào phía võng bên chân bị thương thì thấy máu từ vết thương rỉ ra làm ướt đỏ cả một vùng võng, không chút do dự, cô rút chiếc khăn tay trong túi áo buộc vào vết thương cho tôi và khẽ nói:

- Vết thương anh rỉ máu, anh chịu khó đau một tý để em buộc chặt chiếc khăn vào vết thương cho đỡ chảy máu nghe anh.

Tôi nghe rõ tiếng em nhưng mệt quá không trả lời. Tôi nằm yên và cố mở mắt nhìn em, nhưng trong ánh sáng lờ mờ của đèn pin tôi không nhìn được rõ mặt. Tôi chỉ thấy đôi mắt sáng đen, mái tóc xoã ngang vai, cô còn rất trẻ.

Ðến CT.5, 2 cô bàn giao thương binh rồi vội vã quay về trạm phẫu Trung đoàn, chỉ kịp chào:

- Thôi anh về viện. Chúc anh mau lành vết thương để trở về đơn vị.

Tôi chỉ kịp đáp lại: 2 cô đi mạnh nghe...! Cũng chẳng nói được lời cảm ơn và hỏi tên là gì, ở đơn vị nào nữa! Sau nghĩ lại thấy ân hận và hối tiếc vô cùng...

Chiếc khăn đó, sáng hôm sau, được cô y tá thay băng phát hiện rồi đem giặt sạch đưa lại cho tôi. Tay cô trao chiếc khăn, miệng vừa cười, vừa nói: "Anh có chiếc khăn tay người yêu kỷ niệm đẹp thật!". Tôi chẳng biết nói sao. Mặt tôi đỏ bừng vì xấu hổ. Chiếc khăn được tôi giữ kín trong ba lô làm kỷ niệm. Sau ngày ra viện, tôi có dò hỏi tìm cô gái thanh niên xung phong tải thương hôm đó. Nhưng vì hoàn cảnh chiến tranh; đơn vị tôi lại được điều đi hoạt động ở địa bàn khác; Mặt trận miền Nam thì rộng, chúng tôi đi khắp đó đây... tìm em như tìm kim đáy biển.

Và từ đó, mỗi lần nghe bài hát "Chiếc khăn tay" của Nhạc sĩ Xuân Hồng cất lên: "Chiếc khăn tay không biết về ai. Nhưng lòng em vẫn tin ở ngày mai"... thì tim tôi lại rạo rực và câu chuyện về chiếc khăn tay lại trỗi dậy trong tôi. Tôi lại tự hỏi: Không biết giờ này em ở đâu và sau ngày toàn thắng em còn sống trở về hay nằm lại mãi mãi cùng núi rừng miền Ðông Nam Bộ.

Giờ đây chiếc khăn tay tôi vẫn còn giữ. Nó là vật kỷ niệm thiêng liêng của cuộc đời tôi./.

(Ghi theo lời kể một chiến sĩ Sư đoàn 9).

Bác sĩ Bùi Đình Đậu, công tác tại Tổng đội TNXP

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.