ĐT: 0939.923988
Thứ hai, 25-8-25 23:58:55
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Chặng đường mùa xuân 1975: Bài 2: Tìm đơn vị “săn tàu”

Báo Cà Mau Từ Xẽo Trê, tôi chèo vô Biện Tràng và từ Biện Tràng chèo lên một chặng xa lắc, cả chục cây số. Tôi tìm gặp anh em cán bộ, chiến sĩ đội “săn tàu” của tỉnh đang ngày đêm nằm bên công sự trên bờ sông Ðốc, đoạn vàm Cỏ Xước. Ra đời chưa đầy một năm, đơn vị trẻ và những người chiến sĩ trẻ có mặt ở đây đã nhận chìm 16 chiếc tàu sắt giặc, diệt hàng trăm tên, làm chủ hoàn toàn tuyến sông chiến lược này.

Từ Xẽo Trê, tôi chèo vô Biện Tràng và từ Biện Tràng chèo lên một chặng xa lắc, cả chục cây số. Tôi tìm gặp anh em cán bộ, chiến sĩ đội “săn tàu” của tỉnh đang ngày đêm nằm bên công sự trên bờ sông Ðốc, đoạn vàm Cỏ Xước. Ra đời chưa đầy một năm, đơn vị trẻ và những người chiến sĩ trẻ có mặt ở đây đã nhận chìm 16 chiếc tàu sắt giặc, diệt hàng trăm tên, làm chủ hoàn toàn tuyến sông chiến lược này.

Ðêm xuống, tôi nghỉ tại nhà cô Tư Biển trên bờ sông vàm Cỏ Xước. Tôi biết rõ nguồn gốc bà con quê hương xứ xở Bến Tre. Cô Tư là chị ruột của cô Út Cẩm công tác tại Nhà in Trần Ngọc Hy tỉnh Cà Mau. Nghe tôi nhìn, cô Tư vui lắm, xem tôi như cháu ruột của cô. Ðêm này, bầu trời đen kịn. Cô Tư mở chiếc radio nghe báo bão Sóc Trăng, Cà Mau. Dự báo thời tiết như vậy, đến khoảng 5 năm sau, tức vào năm 1980 mới biết đó là áp thấp nhiệt đới. Gió thổi qua từng ngọn cây ào ào, gió lọt vào cửa sổ nhà, lạnh buốt. Mặt sông Ðốc sóng nổi lên cuồn cuộn…

Đoàn cán bộ chờ chuyến vượt sông - con sông rất nhiều đồn bót và tàu chiến giặc tuần tra nghiêm ngặt.   Ảnh: VÕ AN KHÁNH

Sáng lại, trời quang mây, bình thường. Tôi từ giã cô Tư, hỏi đường để trở ra hướng Bàu Phong. Ði trên mảnh đất này mà nhớ chiến công của Tiểu đoàn U Minh 2 vào năm 1970, thời kỳ giặc “bình định” đánh phá ác liệt. Sau gần 5 tháng quân giặc tái chiếm chi khu Rạch Ráng và trước khi xuất hiện bộ đội Ð10 - Trung đoàn 10 trên địa bàn này, Tiểu đoàn U Minh 2 vượt sông Ðốc về xã Trần Hợi và trở qua xã Lợi An, chỉ trong vòng 4 ngày đã diễn ra 3 trận đánh vang dội.

Ðó là trận công đồn Rạch Ruộng, đả viện quân bảo an chi khu Rạch Ráng trên cánh đồng đầu kinh Ðộc Lập ngày 26/2/1970, trận đánh địch đổ quân xuống ngay đội hình ở ấp 10 - giáp So Le, Kiểu Mẫu, bắn rơi 3 chiếc trực thăng ngày 27/2/1970 và trận thứ ba vào đêm ngày 1/3/1970, Tiểu đoàn U Minh 2 tập kích đồn Xẽo Dá do Ðại đội bảo an 518 mới lấn chiếm, diệt và làm bị thương 70 tên, trong đó có tên Vinh đồn trưởng và tên Bi trưởng đoàn “bình định”. Bộ đội ta, có 1 chiến sĩ bị thương chui vô cây rơm cách đồn khoảng 100 m ẩn tránh, được người dân Cỏ Xước hết lòng giúp đỡ. Bà Hai Hùng (má vợ đồng chí Ba Cước) và bà Tư Hợi phát hiện, khiêng người chiến sĩ bị thương bỏ vô thùng phuy chở đến bà Ba Nguyệt cách đó khoảng 10 công đất, chích mũi thuốc khoẻ rồi chở đưa vô vùng giải phóng an toàn. Bà Ba Nguyệt, vợ ông Vũ Phát, cán bộ cách mạng, thời chiến bà lén chế độ cũ làm bảo sanh, y tế tư ở vùng này.

Tôi chống xuồng băng hướng Cái Bát, Bàu Phong, đẩy cây chèo nặng, mặt trời lên cao nên tìm nhà xin nước uống. Tôi ghé lên gian nhà lá giữa đồng, chỉ một mình bà lão ở nhà trên, xóm trống trải, cây lá lưa thưa. Giọng bà mừng rỡ:

- Vô ngồi nghỉ, uống nước một chút rồi hễ đi cháu!

Ðoạn, bà lại bộ ván, lấy bình ly. Rồi bà lấy chuối chín sắp trong dĩa, gọi tôi: “Ăn chuối, uống nước đi cháu. Chèn ơi, còn đi công tác được qua mừng quá”. Bà chỉ vào bàn thờ: “Qua nè, ba đứa con hy sinh thờ 3 lư hương đó!”.

Theo lời bà lão, một con rể và hai người con trai của bà hy sinh đợt Tết Mậu Thân 1968 và thời kỳ giặc “bình định” ác liệt. Bà cầm cục thuốc xỉa trên hàm răng, vừa hỏi tôi:

- Cháu có ảnh Bác Hồ cho qua 1 tấm. Lúc trước qua cũng có hình Bác Hồ. Rồi giặc lại đóng đồn, qua giấu trong lá cờ Mặt trận. Sau đó nhà bị cháy, đồ đạc cháy hết đâu còn gì…

Từ giã bà lão, tôi nhớ mà cảm thấy như còn nợ bà một tấm ảnh Bác Hồ. Tôi tiếp tục chống xuồng đi, vòng quanh trên cánh đồng rồi ra kinh rạch mà tôi không rõ địa danh. Tôi chèo mải miết, tìm nhà bác Chín Vĩ, người Bến Tre, thân sinh anh Ba Hùng. Tôi biết bác Chín năm 1970, lúc tôi công tác chung với anh Ba. Gần một năm sau ngày giặc tái chiếm chi khu Rạch Ráng, bác Chín bằng mọi cách xuống tới nhà anh Ba ở kinh cũ để thăm cháu nội. Mấy năm “bình định” ác liệt, giặc đóng đồn Xẽo Dá, Cái Bát và tứ giăng trên đất Lợi An. Ðến cuối năm 1974, giặc chạy, không còn đồn bót nhưng ở đây là vùng ven, vùng yếu, vùng tiếp giáp, cách thị xã Cà Mau 7 km về phía Nam.

Bác Chín (1916-1976) vóc dáng ốm cao, gương mặt phúc hậu, đức tính hiền, giọng nói nhỏ nhẹ và nét đào hoa, đẹp lão. Bác biết nghề võ nhưng ở đời không mích lòng chòm xóm, bà con. Một ngày cuối năm 1974, khi tìm được nhà, tôi bước lên, chào hỏi:

- Mạnh khoẻ bác Chín ơi!

Nghe gọi đúng thứ, bác Chín rời chiếc võng, đứng dậy, bước ra nhìn kỹ và nhận ra tôi, bác nói nhỏ:

- Ủa, cháu hả?

Tôi “dạ” và hỏi tiếp:

- Bác về đây lâu chưa?

Bác Chín nói:

- Mới về vài hôm. Nhà ở ngoải (kinh Bà Cai) sang lại cho người khác rồi!

Vậy là tôi may mắn được gặp bác Chín “mới về vài hôm” ngay nhà đất cũ tại đây. Bác nói thật nhỏ như dè chừng:

- Mầy coi vầy mà làm sao ở được. Ðồn nó đóng sát bên. Nó bắn rát lưng. Dọn đồ đi, nó hổng cho. Hễ xuồng ai ghé lại bến này là nó đuổi. Nó sợ chở đồ nhà tao đi…

Chị Hai (dâu bác Chín) đang ngồi may bên giàn máy may cũng nói:

- Chú ơi, giặc giã làm quá, riết rồi hổng dám ở nhà. Nhà này giao cho du kích ở làm công sự mà bao vây đồn Cái Bát bên góc bờ…

Anh Hai - Bùi Minh Lý (1938), con trai cả của bác Chín, Xã uỷ viên, Trưởng Ban Binh vận xã Lợi An, hy sinh năm Mậu Thân 1968. Chị Hai và các con của chị là Hồng Nga, Hồng Nhiên, Thu Thuỷ, Hồng Thắm sống chung nhà với hai bác Chín. Tôi nhìn chiếc tủ bóng loáng có thủng một lỗ và trên mặt bàn cũng bị thủng lỗ chỗ, bác Chín nói:

- Ðạn nó bắn đó. Xác nhà trước tiêu hết. Nhà này mua của người ta, dỡ về, mới cất lại hồi năm kia.

Bác Chín gọi đứa cháu nội:

- Nhiên, lấy mãng cầu xẻ cho chú bây ăn.

 - Lúa khá không bác Chín? Tôi hỏi. Bác cho hay:

- Khá. Nói đáng, nhờ êm mình làm ruộng được.

Cháu Hồng Nhiên bưng ra một dĩa 3 miếng mãng cầu xiêm, mời tôi: “Chú ăn mãng cầu”. Bác Chín gái, cũng người Bến Tre, nhắc gọi tôi mấy bận:

- Bây ăn đi. Ở nhà mới ăn rồi!

Tôi cầm miếng mãng cầu bước ra đằng sau, vừa thưởng thức hương vị chua ngọt, vừa nhìn quanh vườn. Sau nhà bác Chín có nuôi con sáo huýt gió nghe lảnh lót… Ở trong nhà, bác Chín chu đáo “bổ sung” vào bì của tôi một cục thuốc gò và xấp giấy quyến, chăm chút việc nhỏ mà thân tình biết bao…

Khi tôi từ giã, bác Chín thật tâm lý, cầm tiền bỏ vào túi áo tôi thật nhanh. Tôi khó mà từ chối. Trên đường vòng ra Rạch Muỗi, Tân Ðức về Cái Rắn, Rau Dừa, tôi xem lại biết bác Chín cho tôi 500 đồng tiền Sài Gòn cũ.

Thời chiến, mỗi tháng tôi lãnh sinh hoạt phí từ vài chục đồng, đến cuối năm 1974 lãnh gần 200 đồng (tiền Sài Gòn cũ), dành dụm 2 tháng sắm được một bộ đồ vải lin-phăng 2 cal chỉ màu xanh rêu mới toanh… Qua rồi thời niên thiếu, một chàng trai trưởng thành đi công tác được bà con người Bến Tre ở Cà Mau dành tình cảm thương như cháu ruột mà “lì xì” cho tôi có tiền xài Tết - vui quá trong bụng và duy nhất chỉ cái Tết sau cùng chiến tranh kết thúc, kỷ niệm nhớ suốt trong đời…

Chuyến hành trình bằng xuồng chèo năm ấy, tôi vượt sông Ðốc, xuyên vùng ven phía Nam thị xã Cà Mau, ký ức còn sống động một thời kháng chiến. Ngày ấy, tôi đi trong niềm lạc quan, phơi phới và nhớ mãi cảm giác lâng lâng, sung sướng trên chặng đường mùa xuân 1975./.

Nguyễn Minh

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 2: Tìm hài cốt liệt sĩ nơi xứ người

Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ được Đảng, Nhà nước, Quân đội và thân nhân liệt sĩ được tăng cường, bất kể thời tiết, địa hình trắc trở. Dẫu lắm vất vả, gian truân nhưng là hành trình tri ân về tình đồng đội, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về

LTS: Vào ngày 17/7/2024, Bộ Công an ban hành Kế hoạch số 356/KH-BCA-C06 về việc triển khai thu nhận mẫu ADN cho thân nhân của liệt sĩ chưa xác nhận được danh tính trên toàn quốc. Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà là Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin, đã chỉ đạo một cách sát sao đối với công an của các tỉnh, thành phố. Hoạt động ý nghĩa, nhân văn này nhằm đưa hài cốt các anh hùng liệt sĩ về đất mẹ an táng với tên họ và thông tin đầy đủ nhất, thể hiện sự tri ân mà thế hệ hôm nay đối với thế hệ đi trước.

Những chi bộ đảng đầu tiên ở Cà Mau

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3/2/1930) dưới sự sáng lập và rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam với con đường kiên định: Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. 

Trung đoàn Đặc công Đ10 kỷ niệm 80 năm thành lập

Ngày 9/8, Trung đoàn Đặc công Đ10 Anh hùng long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập, khẳng định truyền thống vẻ vang và tiếp nối ngọn lửa nhiệt huyết cách mạng cho thế hệ sau.

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.