Phần lớn những ngôi chùa Khmer ở Bạc Liêu đều có lịch sử hình thành và phát triển trên 100 năm. Nét nguy nga, tráng lệ của những ngôi chùa cổ đã minh chứng cho sự tín ngưỡng đạo Phật của người Khmer. Có lẽ vì lý do này mà mọi hoạt động văn hóa, sinh hoạt cộng đồng đều diễn ra tại chùa. Và vô hình trung, ngôi chùa Khmer đã trở thành thiết chế văn hóa vô cùng đặc biệt của đồng bào dân tộc.
Có thể nói, chùa vừa là không gian của văn hóa tâm linh, nơi người Khmer tìm kiếm cõi bình yên của tâm hồn, cầu mong đức Phật phò hộ cho mùa màng tươi tốt…; vừa là nơi bà con gắn kết nghĩa tình với nhau. Những ngôi chùa Khmer cổ với những gam màu nóng mang đậm lối kiến trúc Ăng-co thấp thoáng sau những tàng cổ thụ, hòa lẫn trong mùi hương thanh khiết của hoa sa la (loài hoa gắn liền với truyền thuyết đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập cõi Niết bàn) luôn là nỗi nhớ đau đáu về quê hương của những người con xa xứ. Mỗi ngôi chùa Khmer đều có khuôn viên rộng với nhiều công trình trọng yếu như: chánh điện, giảng đường, bảo tháp, tăng xá…. Đó là thành quả của sự lao động miệt mài, cùng đôi mắt thẩm mỹ tinh tế của những người thợ tài hoa. Chánh điện của chùa Khmer Nam tông bao giờ cũng quay về hướng Đông, bởi đó là hướng mặt trời mọc, hướng của ánh sáng và sự hy vọng.
![]() |
| Một góc chùa Cù Lao (xã Hưng Hội, huyện Vĩnh Lợi). Ảnh: K.C |
Trong đời sống quần cư của người Khmer, chùa còn là nơi để bà con phum sóc sinh hoạt, hội họp. Tại đây, chính quyền địa phương thường xuyên tổ chức họp dân, vận động bà con thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; triển khai các phong trào, các cuộc vận động lớn trong việc xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; hay các buổi hòa giải những khúc mắc, mâu thuẫn của bà con để thắt chặt thêm tình làng nghĩa xóm. Thượng tọa Phương Văn Thanh (chùa Cù Lao) cho biết: “Chùa thường tổ chức sinh hoạt phật tử mỗi tháng 4 lần. Ngoài việc giảng giải giáo lý, các sư còn truyền đạt những chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước có lợi cho bà con như: giúp họ định hướng phát triển nghề nghiệp; kêu gọi các bậc cha mẹ, ông bà quan tâm, đôn đốc con cháu học hành, xa lánh các tệ nạn xã hội… hướng họ đến lối sống đẹp, có văn hóa và có ích cho cộng đồng”.
Bên cạnh đó, chùa còn là một trường học đặc biệt cho con em đồng bào phật tử địa phương. Đó là những lớp bổ túc phổ thông ở chùa Cù Lao; những lớp xóa mù chữ, những lớp học tình thương cho trẻ em nghèo làng chài ven biển tại chùa Xiêm Cán… do các nhà sư trực tiếp đứng lớp giảng dạy bằng tất cả tình thương và trách nhiệm. Đồng thời là nơi rèn chữ Khmer cho đồng bào để họ gìn giữ, bảo tồn và không làm mai một chữ viết của dân tộc mình.
Chùa Khmer ở Bạc Liêu còn là nơi cưu mang những mảnh đời cơ nhỡ, bất hạnh. Có lần đến chùa Cái Giá chót (xã Hưng Hội), chúng tôi vô cùng cám cảnh cho mảnh đời cô đơn của một ông lão người dân tộc Khmer tá túc tại chùa. Tuy phải ngồi xe lăn để bán vé số, tự kiếm tiền nuôi bản thân, nhưng mỗi khi có du khách đến chùa tham quan là ông bỏ cả công việc, kể vanh vách lịch sử hình thành, phát triển của ngôi chùa không thua gì thuyết minh viên trong sự ngỡ ngàng và thán phục của du khách. Khi Nghị quyết 02 của Tỉnh ủy “về đẩy mạnh phát triển du lịch” có hiệu lực, thì những ngôi chùa Khmer cổ lại kiêm nhiệm thêm chức năng mới là những di tích văn hóa giàu giá trị lịch sử và nghệ thuật kiến trúc. Đó là những “chứng nhân” cho sự đa dạng về văn hóa của đất và người Bạc Liêu.
Thật không quá lời khi ví những ngôi chùa Khmer Bạc Liêu là các thiết chế văn hóa đặc biệt. Bởi đó không chỉ là tài sản riêng của đồng bào dân tộc, mà còn là tài sản chung vô giá của vùng đất Bạc Liêu trượng nghĩa, hữu tình.
Kim Trúc

Truyền hình








Xem thêm bình luận