ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 4-7-25 08:28:07
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Cuối con đường

Báo Cà Mau Lần lựa mãi, tôi, Hoàng Văn Một (điện báo viên) và Nguyễn Thanh Vũ (cơ công), mới có chuyến về Ðập Ðá. 30 năm hoà bình, cộng với 10 năm trước đó, tính ra chúng tôi đã xa Ðập Ðá 40 năm chẵn. Dấu vết đã chìm sâu vào biến đổi của thời gian, phải tinh ý lắm mới bắt gặp một vài chi tiết vụn vặt, như cái mương ranh có gốc bình bát già cỗi, cái bàn thờ thông thiên giữa sân được bao bọc bởi chòm bông trang đỏ ối.

Lần lựa mãi, tôi, Hoàng Văn Một (điện báo viên) và Nguyễn Thanh Vũ (cơ công), mới có chuyến về Ðập Ðá. 30 năm hoà bình, cộng với 10 năm trước đó, tính ra chúng tôi đã xa Ðập Ðá 40 năm chẵn. Dấu vết đã chìm sâu vào biến đổi của thời gian, phải tinh ý lắm mới bắt gặp một vài chi tiết vụn vặt, như cái mương ranh có gốc bình bát già cỗi, cái bàn thờ thông thiên giữa sân được bao bọc bởi chòm bông trang đỏ ối.

Người mà chúng tôi tìm gặp trước tiên là Ngọc - Lê Thị Ngọc, 1 gia đình nuôi chứa cán bộ thời kỳ hoạt động bí mật, 1 đoàn viên gan góc, 1 con thoi giữa chúng tôi và tổ cơ yếu xóm Giữa, một cuộc đời…

Bất ngờ, lạ lẫm, chừng ấy năm xa cách rồi cũng đi qua. Trước mắt chúng tôi là một “bà” Ngọc đúng nghĩa. 2 đứa con dâu, 1 con rể và 4 đứa cháu nội, ngoại. Cái đồng tiền lún bên má dường như bị các nếp nhăn làm cạn đi, hàm răng trắng, đều bây giờ có mấy cái bị sâu ăn, tim tím.

Minh hoạ: Hoàng Vũ

Tranh thủ thời gian, cũng là cách tạ lỗi với Ngọc. Không cần mào đầu, rào trước đón sau, chúng tôi sà vào câu chuyện mấy mươi năm trước. Thân tình, cảm thông và san sẻ.

… “Lúc các anh đi cho đến Ðồng khởi chỉ có 2 tháng, xóm Ðập Ðá đã có 5 người bị giết, 10 người bị tù đày. Xóm làng chìm trong tang tóc. Cái chết của anh Hùng ở cuối xóm là đỉnh điểm tội ác của bọn tự vệ hương thôn. Chúng bắt anh, trói chặt vào cột cờ trường học rồi dùng cây roi đập cho đến chết. Gia đình em như ngồi trên đống lửa, lúc nào bọn tề nguỵ cũng bắt nạt, làm khó dễ đủ điều. Ba, anh Hai, chế Ba rút vào Làng rừng. Rồi Ðồng khởi, bọn tề điệp số bị trừng trị, số chạy tìm chỗ dựa trong các đồn bót, chi khu.

Ðập Ðá thoát chết, thở phào nhẹ nhõm. Ba em về làm bí thư chi bộ ấp, anh Hai vô địa phương quân huyện, chế Ba đi học lớp y tá, em thì hoạt động suốt ngày, hăng lắm. Ðến năm 1963, em gặp anh Quang, Trung đội phó Ðịa phương quân, bọn em ăn ở với nhau rất hạnh phúc, chỉ mấy năm mà 3 đứa nhỏ chào đời. Chồng đi suốt, chuyện lo ăn, nuôi con gần như chỉ mình em, ăn ở thì chật chội vì nhà ngoài xóm đã bị bom phá sạch, mẹ con tum húm trong căn chòi ở đìa gừa để tránh máy bay. Cho đến…”. Giọng nói của Ngọc nghẹn lại, nước mắt nãy giờ như bị nén lại đâu đó, giờ không ai cản được, tuôn dài. Chúng tôi hiểu, gian nan lúc đương đầu với giặc, 1 nách 3 con trong thời bom đạn chỉ là khúc dạo đầu, chưa phải là điều làm cho Ngọc đau khổ, mất mát suốt mấy mươi năm nay. Và, dường như không có gì để giấu kín, với gương mặt trở nên ráo khô, Ngọc kể tiếp:

… “Một chiều mưa dai dẳng cuối tháng 5/1969, ảnh bị bắt trong cuộc tập kích bằng trực thăng ở kinh Ba. Em điếng người, gửi mấy đứa nhỏ cho bà ngoại, tìm đến căn cứ nổi ở Năm Căn để hỏi thăm, nhưng chẳng ai biết. Rồi 1 buổi sáng, chiếc đầm già lượn mấy vòng, mọi người tưởng sẽ có đàn phản lực đến ném bom. Nhưng không, từ trên chiếc máy bay, 1 giọng nói cất lên, đứt quãng: “Hỡi các cán binh Việt cộng, tôi Ðỗ Văn Quang, Trung đội phó Trung đội 2, thuộc Ðại đội Ðịa phương quân, đã quay về với chính nghĩa quốc gia, kêu gọi anh em…”.

Em cố giữ bình tĩnh để nghe thật rõ, xem có phải là tiếng nói của ảnh không, bởi không ít lần kẻ thù đã dùng thủ đoạn đánh lừa như vậy, lòng dạ bao giờ cũng cầu mong cho sự nhầm lẫn ở tai mình, và cái tên Quang nào đó là sự trùng hợp. Sau đó, em rầu quá, ngã bệnh cả tháng trời, khóc khô nước mắt. Các con còn nhỏ đâu hiểu một phần cơ thể của mẹ nó tan nát. Xóm giềng, người thương thì an ủi, hy vọng điều gì đó xa xôi, người bộc trực thì xa lánh. Em biết, trong các tội thì phản bội Tổ quốc, đồng đội trong chiến đấu là hèn hạ nhất, tai hại nhất, cho nên…”.

Ngọc dừng lại như để thăm dò, như để cầu xin một cách phân xử rạch ròi, ai làm nấy chịu. Ðối với chúng tôi thì cách dừng lại của Ngọc chẳng khác nào dẫn chúng tôi lên chót núi rồi bỏ đó, đi nữa không còn đường, tuột xuống cũng không phải dễ. Chiếc giường nhỏ, 3 người ngồi 3 góc, khoảng cách chỉ cần với cái tay là chạm vào nhau, nhưng tầm với như đã giãn ra, 1 giới tuyến được xác định ngay trong khoảnh khắc. Con tắc kè ở phía sau nhà đã gượng tiếng kêu è è, mệt nhọc. Ðêm buông rất sâu, bốn bề vắng lặng, chỉ có con gà trống bao giờ cũng thao thức, cần mẫn, cầm canh cho đời vút cao tiếng gáy. Mấy con nữa gáy theo, 1 dây chuyền tiếng gà eo ốc. Một thời khắc của cuộc đời nhích lên phía trước và đi qua. Lâu lắm, chúng tôi mới nghe được tiếng gà như đêm nay. Mông lung, định bụng phải chen vào một câu gì đó cho Ngọc hiểu sự thông cảm, san sẻ của mình thì Ngọc đã nói tiếp, như một kịch bản có sẵn:

“Nhục nhã, đau khổ do ảnh gây ra rồi cũng vơi đi, đối với tổ chức, xóm giềng em cũng tự nhận mình có lỗi vì không giữ được chồng cho trọn trung, trọn hiếu. Từ đó em không còn sinh hoạt đoàn thể, hội trưởng hội phụ nữ có người khác thay. Ở đồng đất Ðập Ðá này, đất liền đất, ranh liền ranh nhưng em cảm thấy như mình đang ở trên ốc đảo xa lạ, vắng bóng người. Không nhớ hết có bao đêm không ngủ là gì. Thao thức, trằn trọc, giày vò, nghĩ ngợi. Cuộc đời mình không làm gì to tát, chỉ loanh quanh ở ấp, nhưng thật ra không có lúc nào nghỉ, hết nút giao liên ở huyện, bí thư chi đoàn, đến hội trưởng phụ nữ. Em tưởng thách thức lớn nhất trong đời là mấy lần đấu tranh trực diện ở chi khu, 2 lần, 10 ngày bị địch bắt giam, tra tấn, sàm sỡ lãnh đủ. Những lần dưới làn đạn như mưa, đoàn xuồng đấu tranh vẫn tiến lên ào ào, không ai biết sợ chết. Vậy mà cái thử thách sau này mới khủng khiếp. Mà… - Ngọc bỗng đổi giọng - nghĩ các anh tệ thiệt, đã đi thì đi biệt, không nhớ em út là gì…”.

- Có nhớ, cuối năm 1962, anh có gặp em kia mà - Vũ chống chế.

- Ừ, thì có gặp nhưng anh đâu có ý thăm em, chỉ đi đường qua nút thôi mà - và Ngọc chợt hỏi lại - Bữa qua sông đó, em có đưa anh cái khăn tắm, nhớ không?

Giọng Ngọc như lại trẻ trung, phần bi như được vơi đi, cuối con đường đã có vệt sáng. Vũ ngẩn ra rồi ậm ừ, gật đầu. Kỷ niệm cũ sao lại có người quên, kẻ nhớ. Chúng tôi bần thần, xấu hổ, bèn đánh trống lãng. Những chi tiết về cuộc đời Ngọc tưởng cũng đủ, dù chỉ thiếu cái kết cục. Nỗi đau của Ngọc, hay nói cách khác, là nỗi đau của người phụ nữ trong chiến tranh. Trường hợp của Ngọc không nhiều, nhưng đây đó vẫn có thật. Chủ động, thân tình, chúng tôi hỏi tiếp về Quang, chồng Ngọc.

… “Không có gì hết. Giải phóng năm 1975, em cũng nghĩ tới chuyện gặp lại. Là tù binh, ảnh sẽ giải thoát. Là lính nguỵ, ảnh cũng phải trình diện, cải tạo. Nhưng mịt mờ lắm, không có đáp số. Em tức, bị bắt là kịch bản của sự đầu hàng ư? Nhưng tại sao trong chiến đấu, anh lại là người gan dạ, dũng cảm; với gia đình, ảnh cũng không tệ. Vậy mà…”.

Chậm rãi, mạch lạc, lại chút triết lý, Ngọc nói như là chờ đợi từ lâu để được nói. Một cái ngáp kín đáo của Ngọc khiến chúng tôi sực tỉnh. Nhìn lên bóng đèn thức khuya cũng đang nhấp nháy. Ngoài sông đã có tiếng máy đuôi tôm lách nước, ánh sáng dường như rựng ở phía trước nhà. Không phải không còn gì để nói tiếp, chỉ có điều, cái bi kịch chiến tranh trong đời Ngọc hơn 30 năm sau vẫn chưa chịu buông tha. Kết thúc chiến tranh, người ta nêu tiêu chí còn sống là số một. Ðúng, Ngọc vẫn sống, nhưng thân phận của mỗi người còn sống không giống nhau, càng cá biệt, vinh quang càng lớn, mà có khi nỗi đau lại càng sâu. Chiến tranh, số phận con người sao nghiệt ngã, đám mây xám xịt đang trùm lên cái chòi nhỏ của Ngọc, bỗng chốc trở thành bão tố.

Ngọc có ý trách chúng tôi vô tình. Ðúng quá còn gì. Nhờ tiếp nối một cách suôn sẻ cái được sau chiến tranh, nên chúng tôi có được nhiều thứ, có lúc còn muốn manh nha để giành giật nhiều cái được nữa. Còn Ngọc, không có gì để bám víu. Trong căn nhà 3 gian cột kê đủ kín mưa nắng, phía sau được nối thêm 1 cái chái để làm bếp; đồ đạc trong nhà dù được đặt đúng chỗ, để đúng nơi, sạch sẽ nhưng vẫn còn thô sơ, chứng tỏ cuộc vật lộn mưu sinh còn đang đè nặng lên đôi vai của Ngọc.

Thời thiếu nữ, Ngọc không thuộc vào diện người đẹp như bây giờ người ta tính số đo, nhưng ở Ngọc có mấy cái mạnh rất xao xuyến, 2 đồng tiền lún sâu trên đôi má tròn, mịn; 2 hàm răng trắng, đều và đặc biệt là giọng nói ngọt như ngụm nước dừa xiêm giữa nắng hạn. Mỗi lần mang cơm vô cứ, Ngọc đều có cái nhìn như người chị, lúc thì xách chổi quét cái nền chòi ẩm ướt, lúc thì xếp lại mấy cái ba lô để cẩu thả trên tấm vạc, khi thì mang kim chỉ vào để vá lại cái áo rách vai, cái quần hở ống.

Có lần, Vũ bị sốt liên miên, thuốc men, cơm cháo, chỉ mình Ngọc. 2 năm, từ chỗ như một đứa em gái nhỏ của chúng tôi, Ngọc đã trở nên kín đáo, e thẹn, giữ ý. Dù chưa ai có động tĩnh gì, nhưng bóng dáng của Ngọc đã có chỗ trong trái tim mình, nếu như không có cuộc đổi vùng cách núi ngăn sông sau đó, tất nhiên, tôi hay Vũ là chuyện khác…

Nguyễn Thái Thuận

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Ðài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến - Tiếng nói của khát vọng độc lập, tự do

Đài Nam Bộ Kháng chiến ra đời những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947-1954). Có lúc đóng ở Ðồng Tháp Mười (Long An); có giai đoạn ở Thới Bình, Ðầm Dơi, Ngọc Hiển, U Minh (Cà Mau), hay Kiên Giang, Bạc Liêu; có thời điểm đài đổi tên thành Ðài Tiếng nói Nam Bộ. Tuy vậy, dù ở bất cứ nơi đâu, tên gọi khác nhau, nhưng các thế hệ cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên của đài không ai được đào tạo bài bản về phát thanh nhưng đã làm nên một đài phát thanh vang danh, lừng lẫy; tạo dấu ấn đặc biệt trong lịch sử báo chí Việt Nam nói chung và ngành phát thanh nói riêng. Ðó là tiếng nói của Uỷ ban Nam Bộ Kháng chiến; cầu nối của Ðảng, Bác Hồ với đồng bào Nam Bộ; là ước mong, khát vọng của đồng bào nơi đây về một Việt Nam độc lập, tự do.

Những khó khăn, thách thức của người làm báo trong thời kháng chiến

Mùa khô năm 1964, lần thứ hai tôi theo mẹ từ Bến Tre vào Cà Mau thăm ba tôi đang làm ruộng và dạy học tư ở Kinh Hãng Giữa... Ba tôi bất hợp pháp kể từ năm bác ruột thứ tư của tôi - 1 trong 12 người Việt Minh làng Ba Mỹ bị giặc Pháp bắt chặt đầu ở bót Nhà Việc Mỹ Chánh năm 1946... Lần này, ba tôi không cho tôi trở về quê nữa, vì về ngoải mai mốt lớn lên tụi giặc nó bắt lính... Thế là tôi phải ở lại trong này, thành công dân Cà Mau từ đó.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.