ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 20-4-25 10:04:22
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

ĐBSCL trước thách thức biến đổi khí hậu: Bài 2: Tìm nước cho vùng sông nước

Báo Cà Mau Có đến 390.000 hộ gia đình thiếu nước sinh hoạt vào thời gian cao điểm, gần 500.000 ha lúa, hoa màu và nuôi thuỷ sản của người dân toàn vùng ÐBSCL bị thiệt hại vì nắng hạn, cho thấy nước ngọt đang là bài toàn cấp bách của vùng đồng bằng này.

Có đến 390.000 hộ gia đình thiếu nước sinh hoạt vào thời gian cao điểm, gần 500.000 ha lúa, hoa màu và nuôi thuỷ sản của người dân toàn vùng ÐBSCL bị thiệt hại vì nắng hạn, cho thấy nước ngọt đang là bài toàn cấp bách của vùng đồng bằng này.

Là vùng đất nằm ở phía cuối của lưu vực sông Mê Kông, do đó, những tác động của BÐKH, các đập thuỷ điện, các công trình chuyển nước và những diễn biến thay đổi khác ở thượng lưu như hiện nay, đã đặt vùng ÐBSCL trước nguy cơ thiếu nước nghiêm trọng phục vụ sinh hoạt và sản xuất.

Mùa khô 2015-2016, người dân xã Biển Bạch, huyện Thới Bình phải đổi nước ngọt với giá 45.000 đồng/m3.

Vùng ÐBSCL được thiên nhiên “thiết kế” rất độc đáo với 3 túi trữ nước khổng lồ là Biển Hồ, Ðồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên. Vào mùa nước, khi nước sông Mê Kông dâng cao và chảy vào Biển Hồ khiến diện tích tăng lên gấp 5 lần với khoảng 1,5 triệu héc-ta. Về tới Việt Nam, nước tràn vào Ðồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên. 3 khối nước này được tạm trữ trong các hồ làm cho dòng nước hiền hoà đi, từ đó ÐBSCL xưa kia không có lũ mà chỉ có mùa nước nổi.

Khi đó ÐBSCL được xem là vùng đất trù phú, đất đai màu mỡ và đa dạng sinh học. Thế nhưng, kể từ khi nhiều công trình đập trên thượng lưu sông Mê Kông được xây dựng đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến vùng đồng bằng, đặc biệt là nguồn nước.

Nguy cơ thiếu nước ngày một trầm trọng

Hệ thống thuỷ điện trên dòng Mê Kông được chia ra làm 2 nhóm đập: nhóm 1 gồm các đập dòng chính ở Trung Quốc và các đập chi lưu ở Lào, Thái Lan, đây là các đập có hồ chứa lớn, có khả năng tích nước mùa lũ và xả nước mùa khô để phát điện. Nhóm 2 gồm 11 đập dự kiến trên dòng chính Mê Kông ở hạ lưu vực, với 9 đập ở Lào và 2 đập ở Campuchia. Trong số này thì 2 đập là Xayaburi và Don Sahong ở Lào đã khởi công xây dựng.

Nói về tác động của hệ thống đập và hồ trữ trên lưu vực sông Mê Kông, Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia sinh thái học ÐBSCL, phân tích, bình thường, các đập nhóm 1 không có khả năng gây khô hạn cho ÐBSCL vì lượng nước đóng góp từ phần này vào toàn lưu vực chỉ khoảng 16%. Nhưng đối với những năm đặc biệt khô hạn, các đập này có thể gia tăng trữ nước, từ đó sẽ làm trầm trọng thêm tình trạng khô hạn và xâm mặn ở ÐBSCL. Các đập nhóm 2, dự kiến ở hạ lưu, sẽ tác động nghiêm trọng với ÐBSCL cả về lượng nước, phù sa và thuỷ sản. Bởi lẽ, theo cơ chế vận hành, đây là đập dâng tích và xả nước trong ngày (tích 16 giờ, xả 8 giờ), vì vậy, nước sẽ về ÐBSCL rất muộn, gia tăng khô hạn và xâm mặn vào những năm khô hạn.

Sự thiếu hụt nguồn nước ngọt đối với vùng đồng bằng có thế thấy rõ nhất khi nhìn vào dự án chuyển nước Kong-Loei-Chi-Mun. Công trình này khi đưa vào vận hành sẽ chiết ra khoảng 1.200 m3/s từ lưu lượng dòng chảy 2.500 m3/s của sông Mê Kông. Giáo sư Nguyễn Ngọc Trân nhận định, lượng nước chảy về đồng bằng là ít hơn, lũ thấp hơn là tất yếu và chuyện khan hiếm nước ngọt đã được dự báo toàn cầu chứ không riêng Việt Nam hay khu vực ÐBSCL.

Không chỉ có các công trình thuỷ điện trên lưu vực sông Mê Kông, Giáo sư Trân còn đưa ra một số nguyên nhân nữa khiến tài nguyên nước, tài nguyên đất ngày một cạn kiệt, đó là mô hình phát triển nông nghiệp hiện nay đang làm nghèo ÐBSCL. Ðặc biệt, việc quản lý Nhà nước đối với nguồn tài nguyên nước còn nhiều chồng chéo, thừa cơ chế nhưng thiếu liên kết, thiếu phối hợp, thiếu một cơ chế phát triển vùng để tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả đồng bằng. Những chồng chéo đó đã vô tình làm tài nguyên đất, tài nguyên nước ngày một kiệt quệ và vô hiệu hoá giải pháp ứng phó với thách thức thời gian qua.

Trở lại nhận định chính mô hình sản xuất đã làm cạn kiệt nguồn tài nguyên nước, tài nguyên đất, Giáo sư Trân phân tích, chính những đê bao triệt để vùng Tứ Giác Long Xuyên và Ðồng Tháp Mười khiến nước không thể vào được những khu vực này, nghĩa là thời gian qua ta đã “đuổi lũ”, cộng với việc thoát lũ nhanh để sản xuất vụ 3 là lãng phí tài nguyên nước, làm đất giảm độ phì. Giáo sư phân tích thêm, để sản xuất 1 kg gạo cần đến từ 3.000-5.000 lít nước, trong khi giá xuất khẩu gạo trong những năm gần đây liên tục giảm. Như vậy, vấn đề đặt ra là, hiện nay sản xuất có nên chạy theo số lượng để duy trì vị trí là vựa lúa cả nước và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, an ninh lương thực thế giới, hay sản xuất ít lại nhưng tăng chất lượng, giá trị để hạn chế lãng phí tài nguyên nước, tài nguyên đất.

Sinh thái, cuộc sống trước nguy cơ bị xáo trộn

Ðối với lượng phù sa, Thạc sĩ Thiện cho rằng, tất cả hệ thống đập hiện nay và các đập dự kiến xây dựng đều ảnh hưởng nghiêm trọng đến lượng phù sa về với ÐBSCL. Việc thiếu hụt phù sa đã khiến tình trạng sạt lở bờ biển, cửa sông, lòng sông ngày một dữ dội hơn. Theo số liệu năm 2014 của Uỷ hội Mê Kông quốc tế (MRC), tổng lượng phù sa lơ lửng của sông Mê Kông giảm xuống còn 85 triệu tấn/năm, so với 160 triệu tấn/năm vào năm 1992, do tác động của các đập ở Trung Quốc. Ðồng thời, nếu 11 đập nhóm 2 được hoàn tất thì tải lượng phù sa lơ lửng của sông Mê Kông sẽ chỉ còn 42 triệu tấn/năm, tức chỉ bằng một phần tư trước kia. Khi đó tình trạng sạt lở sẽ trở nên dữ dội hơn.

Ðối với tác động của các đập trên dòng chính sông Mê Kông, theo Giáo sư Nguyễn Ngọc Trân, không chỉ ảnh hưởng đến lượng nước mà cả chất lượng nước và đa dạng sinh học, thuỷ sản đang bị sụt giảm nghiêm trọng bởi các đập này. Ngoài ra, việc xả nước của các đập lúc triều lên hay xuống sẽ làm thay đổi hoàn toàn chế độ thuỷ văn của vùng đồng bằng. Ngoài ra, với lượng trầm tích về đồng bằng thấp, sẽ dẫn đến những thay đổi về hình thái của lòng sông, cồn bãi, các cửa sông, bờ biển, cũng như lớp phù sa trên bề mặt châu thổ sẽ mỏng đi. Từ đó khiến kinh tế, cuộc sống và kế sinh nhai của cư dân vùng hạ lưu bị xáo trộn.

Giáo sư Trân còn cho rằng, thách thức đang đặt ra còn do chính tác động tại nội địa, do hoạt động khai thác tài nguyên. Việc mất rừng ngập mặn khiến bờ biển mất đệm chắn sóng, giảm khả năng giữ phù sa, giảm hấp thụ CO2; mất rừng tràm làm giảm đa dạng sinh học, chuỗi dinh dưỡng và môi trường vùng ngập nước trở nên nghèo kiệt; khai thác cát dọc sông Tiền, sông Hậu không quản lý được làm trầm trọng hơn sự thâm hụt của cán cân trầm tích; khai thác nước ngầm quá mức góp phần làm mặt đất đồng bằng sụp lún… tất cả các hoạt động khai thác tài nguyên trên đã làm cho việc ứng phó khó khăn hơn.

Trước những phân tích có thể thấy, việc phát triển ÐBSCL hiện nay luôn đặt trong bối cảnh có nhiều yếu tố bất định. Sự khan hiếm nước ngọt và những tình huống cực đoan sẽ xảy ra nhiều hơn, với cường độ mạnh hơn, nước ngọt không còn là “của trời cho” vô hạn… Tuy nhiên, đây chưa hẳn hoàn toàn là thách thức nếu có sự thay đổi nhận thức về đồng bằng.

“Tại châu thổ, ở những vùng mà quá trình biển chiếm ưu thế, chung sống với nước mặn, xem nước mặn và lợ là tài nguyên cần được khai thác, khi đó sẽ biến thách thức mặn thành lợi thế và mở ra những tiềm năng mới cho đồng bằng”, Giáo sư Trân nhận định./.

Bài 3: Biến thách thức thành cơ hội

Bài và ảnh: Nguyễn Phú

Nhiệm vụ mới của ngành công an dần đi vào nền nếp

Nếu như thời gian đầu còn nhiều bỡ ngỡ, khó khăn trong khâu vận hành khi mới tiếp nhận công việc từ Sở Giao thông vận tải (nay là Sở Xây dựng), thì đến thời điểm này, các đầu công việc trong thực hiện cấp đổi giấy phép lái xe (GPLX) của Ðội Sát hạch, cấp GPLX cơ giới đường bộ (Phòng Cảnh sát giao thông (CSGT) Công an tỉnh) dần đi vào nền nếp, bước đầu mang lại hiệu quả.

Hỗ trợ đăng ký thành lập, hoạt động doanh nghiệp

Thực hiện chủ trương, kế hoạch và chỉ đạo của tỉnh về việc đẩy mạnh chuyển đổi số, Sở Kế hoạch và Ðầu tư (nay là Sở Tài chính) đã chỉ đạo, phân công bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả tại Trung tâm Giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) tỉnh hướng dẫn, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp (DN) thực hiện TTHC về đăng ký thành lập và hoạt động của DN. Tuy nhiên, do thủ tục phát sinh khá nhiều và quy trình thực hiện thủ tục đăng ký DN trên môi trường mạng còn phức tạp, cần sự hỗ trợ kịp thời, góp phần nâng cao sự hài lòng của DN, cải thiện Chỉ số PCI tỉnh.

Ðổi mới nội dung, nâng cao hiệu quả kiểm tra

Kiểm tra công tác cải cách hành chính (CCHC) được tỉnh xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quản lý, chỉ đạo, điều hành CCHC, nhằm tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức, nhất là người đứng đầu. Vì thế, công tác kiểm tra không ngừng được đổi mới nội dung, nâng cao hiệu quả, góp phần nâng cao Chỉ số CCHC của tỉnh.

Hoạt động ổn định, thông suốt sau sáp nhập

Ðầu năm 2025, toàn tỉnh có 18 cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh với 206 tổ chức bên trong. Thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; sau khi sắp xếp, toàn tỉnh hiện còn 13 cơ quan với 159 tổ chức bên trong, bao gồm 68 phòng, 12 chi cục và tương đương, 79 đơn vị sự nghiệp công lập (giảm 5 cơ quan chuyên môn và 47 tổ chức bên trong).

Ðơn giản thủ tục hành chính theo hướng thực chất

Cắt giảm và đơn giản hoá thủ tục hành chính (TTHC) theo hướng dễ hiểu, dễ thực hiện, tiết kiệm thời gian, chi phí, công sức cho tổ chức, cá nhân là một nhiệm vụ trọng tâm và xuyên suốt được các cơ quan, đơn vị, địa phương trên địa bàn tỉnh đẩy mạnh thực hiện. Ðiều đó khẳng định quyết tâm của tỉnh Cà Mau trong việc xây dựng một nền hành chính hiện đại, minh bạch và hiệu quả.

Tích hợp sổ sức khoẻ điện tử trên ứng dụng VneID

Ðể đẩy nhanh việc tích hợp sổ sức khoẻ điện tử (SSKÐT) trên ứng dụng VNeID, góp phần để người dân được hưởng lợi ích thiết thực từ chuyển đổi số mang lại, Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau vừa ban hành kế hoạch triển khai Chiến dịch Tích hợp SSKÐT trên ứng dụng VNeID.

Cà Mau quyết liệt sắp xếp, tinh gọn bộ máy

Bám sát chỉ đạo của Trung ương về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo Nghị quyết số 18-NQ/TW, tỉnh Cà Mau khẩn trương, quyết liệt trong triển khai thực hiện, đảm bảo thống nhất, đồng bộ, gắn với mục tiêu giảm đầu mối và biên chế, nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động.

Cà Mau tăng hạng nhiều nhất so với các tỉnh, thành trong cả nước về chỉ số chuyển đổi số

Bộ Thông tin và Truyền thông vừa công bố "Báo cáo chỉ số đánh giá chuyển đổi số của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương - DTI cấp bộ, cấp tỉnh năm 2023". Theo đó, tỉnh Cà Mau là địa phương được đánh giá là tỉnh tăng hạng nhiều nhất về DTI trong năm 2023 với vị trí 35/63 tỉnh, thành cả nước.

Vì một nền hành chính linh hoạt và toàn diện

Trong phát triển kinh tế - xã hội, tỉnh Cà Mau luôn xác định cải cách hành chính (CCHC) là khâu đột phá, tạo tiền đề quan trọng cho quá trình chuyển đổi số. Vì thế, công tác CCHC luôn được thực hiện xuyên suốt, linh hoạt và toàn diện, hướng đến nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả.

Kế hoạch cải cách thủ tục hành chính trọng tâm năm 2025

Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình ký Quyết định số 240/QĐ-TTg ngày 4/2/2025 ban hành Kế hoạch cải cách thủ tục hành chính trọng tâm năm 2025.