(tiếp theo số báo 3405)
.jpg)
Ảnh minh họa: Internet
Đó là cái thời ông Năm theo thương thuyền Hải Nam từ Trung Quốc sang Bạc Liêu để đi bán Cao đơn hoàn tán dạo, rồi gặp bà Năm ở xứ này nên ông định cư khẩn đất mà làm rẫy. Dòng tộc ông Năm ở Phúc Kiến, có nghề trồng rẫy nhiều đời, hồi mới về đây, trong chiếc ui ná đựng quần áo của ông có một cái túm buộc chặt bằng vải đỏ, ông kiên quyết không cho ai đụng tới và gọi là của hồi môn của ông bà cha mẹ cho mang theo. Thế là cả làng kháo nhau: ông Năm coi nghèo vậy chứ chắc có vàng bạc nhiều lắm. Cho đến một hôm, ông đặt bàn hương án giữa mảnh đất gò của mình để làm lễ tế trời, tế địa mà khai nghề rẫy thì chuyện mới vỡ lẽ ra. Trên bàn hương án hôm đó có con gà trống cúng Thổ công, Quan Đế Thánh Quân và cái gói đo đỏ mà ông giữ khư khư từ trước đến giờ. Cúng xong, ông mở nó ra trong ánh mắt tò mò của chòm xóm thì đó chỉ là một nhúm hạt hoa màu.
Ông Năm lao động dẻo dai, ăn uống kham khổ. Mỗi ngày ông gánh 150 đôi nước để tưới rẫy vào giấc trưa nắng, trái với kinh nghiệm cổ truyền của người Việt trên đất này là tưới vào buổi sáng sớm và chiều mát. Vậy mà lạ lùng thay, đồ rẫy của ông xanh tốt lạ lùng, ai nhìn thấy cũng ham và nông phẩm của ông có nhiều chủng loại rất lạ, mới được trồng ở xứ này. Nếu người Việt trồng bí, bầu, khoai lang… thì rẫy ông Năm trồng rau cần, ngò, hẹ, khoai mỡ, cải tùa xại, xưng xại…
Ông Năm không chỉ trồng rẫy mà còn gánh rau, khoai đi bán khắp các xóm lân cận, đó chính là cái máu thương mại của người Hoa vậy.
Sau này, vì là bạn nối khố nên ba tôi chính là “đệ tử đời thứ nhất” của ông Năm ở đất Bạc Liêu này. Ông Năm không chỉ truyền hết “bí kíp võ công nghề rẫy” mà còn cho những loại giống lạ mang từ bên Tàu qua trồng. Sau này chiến tranh ác liệt, ruộng vườn thất bát, chính nghề rẫy đã giúp gia đình tôi trụ được vào những giai đoạn lao đao lận đận nhất và nó đã góp phần nuôi tôi lớn lên.
Sau đó, nghề rẫy, với những nông phẩm lạ được truyền ra cả làng xã. Các nhà nghiên cứu tiến trình khẩn hoang Nam Bộ đã kết luận rằng: người Hoa có thế mạnh thương mại nên họ đã góp phần quyết định hình thành nhanh chóng các chợ mua bán sầm uất. Việc này thì đúng, nhưng phải nói thêm, người Hoa cũng góp phần ở nhiều lĩnh vực khác, ví như nghề trồng rẫy chẳng hạn. Từ đầu thế kỷ XX, ở Hậu Giang có rất nhiều vùng rẫy danh tiếng, đó là: nhãn Bạc Liêu, khoai lang Trà Ban, khóm Ba Đình, dâu Cái Tàu… Xung quanh những vùng rẫy ấy có những xóm ngày xưa gọi là rẫy Chệt và người ở xóm ấy thì gọi là Chệt Rẫy.
Xin trở lại chuyện của ba tôi và ông Năm. Nếu ông Năm dạy ba tôi nghề rẫy, thì ba tôi là người giúp ông Năm làm ruộng một cách chí tình. Hồi đó, mùa sa mưa là cỏ mọc lên lợp xanh cánh đồng làng tôi. Nông dân chỉ phát cỏ rồi cào bờ giồng mà cấy nọc, chứ chưa áp dụng kỹ thuật cày bừa bằng trâu (kỹ thuật phát cỏ được phát minh ở Nam Bộ vào thế kỷ XVIII). Đến mùa, ba tôi mang phảng đến phát cỏ với bác Năm rồi chở mạ đến cấy cho ông. Ông Năm tiếp thu nhanh, nhưng làm kỹ đến thái quá. Người ta làm ruộng, mỗi năm chỉ đắp bờ một lần, còn ông thì khi nào rảnh là ra đắp, đã thế ông còn lấy chày vồ nện cho cái bờ nhẵn bóng. Mỗi lần trâu ai lỡ vô giẫm cái bờ ruộng đẹp ấy là ông như muốn “đào mồ cuốc mả” cha cái thằng giữ trâu mất dạy. Từ đó mà xung đột nổ ra giữa ông Năm và đám trẻ giữ trâu. Chúng ghét ông! Bữa nào biết ông không có ở nhà, chúng lùa trâu vào giẫm nát mấy cái bờ của ông rồi rình nghe ông chửi bằng một thứ tiếng nửa ta nửa Tàu mà cười bò lăn: “Hụ pó, ngộ pắt liệt nị, ngộ lánh chít mẹ lun”…
Ông Năm qua đời sau khi ba tôi mất 4 năm - 2003, thọ 97 tuổi. Tôi về dự đám tang một ngày một đêm vì ân tình cũ. Khi tôi đến thì chưa đến giờ khâm liệm, người viếng rất đông, nhưng chỉ thấy bà con người Việt. Ông Năm nằm, tóc vẫn xanh như trai trẻ, mặt đầy đặn và bình yên như nằm ngủ, như thể ông rất yên tâm về cõi vĩnh hằng giữa cái lòng đất Việt đã yêu thương, cưu mang, nuôi nấng ông gần trọn cuộc đời.
Thông thường, ở Hậu Giang này đời trước kết thân thì đời sau cũng thế. Theo đó, tôi và thằng Tư, con từng bể Sậy, thằng Xí Hẩu con bác Năm Ẹo cũng làm ní. Và các chị, các em tôi cũng gắn bó thân thiết với những người ngang cùng tuổi của hai gia đình bên ấy.
Từ đó bọn tôi được thụ hưởng một đời sống tinh thần rất sinh động. Lễ Oóc-om-bóc về, gió chướng kéo theo về cái hương lúa mới, tôi và thằng Xí Hẩu cùng các chị em kéo qua nhà từng bể Sậy mà đâm cốm dẹp để được ông lục đút bánh chúc phúc. Sau đó chúng tôi kéo đi xem đua ghe Ngo đầy cuồng nhiệt, rồi đi chùa Cái Giá để xem lễ và vào các Sala mà đùa giỡn, hẹn hò. Tôi và thằng Xí Hẩu học múa Lâm thôn, học nói tiếng Khmer. Từ đó mà sau này, cả ba thằng đều hiểu và nói được ít đỉnh ba thứ tiếng: Việt, Khmer, Hoa như nhiều cư dân ở Hậu Giang, đặc biệt là vùng Vĩnh Châu, vùng Giồng Giữa Bạc Liêu và cả Sóc Trăng cũng thế.
(còn nữa)
Nhà văn Phan Trung Nghĩa

Truyền hình







Xem thêm bình luận