(tiếp theo số báo 3411)
Kính thưa bạn đọc, cho tôi “nói tắt” đoạn này, cách đây hơn 10 năm, có lần tôi được một ông bạn mời đi ăn tân gia ở Phường 3 (TP. Bạc Liêu). Trong bàn của tôi có một ông già hơn 70 tuổi, người mập mạp, tôi được giới thiệu ông là Việt kiều Mỹ mới về và rằng trước đây ông từng là đại úy phi công của chính quyền Sài Gòn - Đại úy Lợi. Ông ngồi gần tôi bắt chuyện. Ông hỏi tôi quê ở đâu? Tôi đáp: “Ở ấp Bờ Xáng, nằm trên bờ sông Bạc Liêu”. Ông bảo: “Thời chiến tranh, tôi lái L19, hay bay ra tuyến ấy”. Tâm thần tôi trở nên bấn loạn. Máu tôi sôi lên đến cổ, tôi có thể nhai ngấu nghiến ai đó. Nhưng tôi đã kịp dằn lòng. Và tôi chỉ nói với Đại úy Lợi một câu, bằng giọng đầy chua chát đau đớn: “Tôi có một người chị ruột, chết năm 1968, do phi pháo của chiếc L19 thường bay theo triền sông Bạc Liêu”. Câu nói của tôi đáng sợ như một nhát dao, nó làm mặt Đại úy Lợi xanh mét. Ông ta đứng dậy nói lập cập: “Xin lỗi, xin lỗi…”, rồi biến mất. Sau đó tôi chỉ còn ngồi mà đau, mà chua chát rồi bật thốt: “Quả là trái đất tròn”. Thế là hết, chuyện đời có lúc đơn giản đến thật lạ, đến mức ta chỉ còn biết ngồi mà ứa nước mắt.

Minh họa: T.L
Ba má tôi, sau khi dời nhà về quê cũ ở ấp Bờ Xáng, họ để lại căn nhà cho anh Tư Cừ ở. Anh Tư với tôi là bà con chú bác ruột, ba anh thứ năm, còn ba tôi thứ sáu. Bác Năm mắc bệnh và chết năm 27 tuổi, sau đó 3 năm thì bác Năm gái cũng qua đời. Bỏ lại 3 đứa con mồ côi mồ cút, anh Tư Cừ là con út, lúc đó mới đi lẫm đẫm. Anh trai và chị dâu chết rồi, ba tôi đem 3 đứa cháu về nuôi đến khôn lớn trong cảnh nghèo nàn và chiến tranh loạn lạc. Ba tôi cưới vợ cho anh Hai Sì rồi cất nhà, cho đất ở riêng, sau đó anh đi kháng chiến và hy sinh. Đến anh Ba Lác cũng thế. Anh Ba Lác là cha của thằng Quyến, cái thằng phát hiện ra dòng họ tôi còn ông bác Tám Cúc ở Cầu Kè (Trà Vinh) mà tôi đã nói ở phần 2 của bút ký này.
Người còn lại là anh Tư Cừ. Hồi nhỏ ai cũng bảo mặt mũi tôi giống hệt anh Tư, thế cho nên anh rất thương tôi, đi làm đồng, hay đi chơi anh đều vác tôi trên vai mang theo. Vì thế tôi cũng thương anh không khác gì mấy anh chị ruột của mình. Trong 3 người con của bác Năm, anh Tư Cừ là một con người rất đặc biệt. Ba tôi có lần kể: “Cái thằng thiệt ngộ, cho nó đi học thì nó bỏ học theo trâu. Vậy mà rồi, khi lớn lên, không biết ai dạy nó mà nó vẽ đẹp, đờn giỏi, hát hay, lại biết sửa la-dô (radio), đồng hồ, bàn máy may, làm thầy dạy chữ…”.
Cho tới bây giờ mấy ông bạn của anh còn sống vẫn kể, anh Tư Cừ đẹp trai lắm, mặt mũi sáng trưng như nghệ sĩ. Anh đờn vọng cổ rất mùi và ca hay như Thành Được (một nghệ sĩ cải lương nổi danh vào thập niên 60 của thế kỷ XX). Thời trai trẻ, khoảng đầu thập niên 60, thế kỷ XX anh ở nhà tôi, mở một lớp học dạy chữ nho nhỏ theo kiểu trường làng. Rồi anh quy tụ trai gái làng, dạy đờn ca cho họ, để hình thành nhóm đờn ca tài tử mà đi phục vụ cả xóm khi tết nhứt, giỗ chạp. Cái lớp học mái lá lụp xụp của anh, gái làng mười tám đôi mươi đến học đông hơn cả con trai và con nít. Họ học không phải vì chữ mà vì để đăm đắm nhìn thầy giáo. Khi anh cất lời ca bay bổng theo gió, nhiều cô gái đã khóc nức nở. Họ khóc không vì xúc cảm của lời ca tuồng tích, mà khóc vì tình đơn lẻ của mình.
Giữa thập niên 60, có gia đình bác Tám mà sau này dân xóm tôi gọi là ông Tám Vịt, vì ông làm nghề nuôi vịt chạy đồng, từ Long Xuyên chạy giặc về xóm ở đậu trên đất của ba tôi. Ba tôi cho ở, cho cây lá lợp nhà, thế là tình thân bắt đầu giữa hai gia đình. Bác Tám Vịt có 3 người con, người con lớn là chị Hai Xuân, lúc ấy mới 18 tuổi, chị đẹp lạ đẹp lùng, da trắng như ngọc, mắt chị long lanh mà thăm thẳm buồn như hồ thu. Bao nhiêu trai làng tôi thầm yêu chị, nhiều người nhờ mối mai đến hỏi cưới nhưng chị đều từ chối.
Một bữa bác Tám Vịt sang nhậu với ba tôi, lúc ngà ngà ông nói: “Con Hai Xuân nó thương thằng Tư Cừ rồi đó, chú coi mà tính”. Từ đó để ý thấy tối nào chị Hai Xuân cũng đi nghe anh Tư đờn ca, mắt chị nhìn anh ướt rượt.
(còn nữa)
Nhà văn Phan Trung Nghĩa

Truyền hình







Xem thêm bình luận