ĐT: 0939.923988
Thứ hai, 4-8-25 02:56:29
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Ngôi sao sáng phương Nam

Báo Cà Mau (CMO) Nếu đến Long Xuyên, hỏi thăm bất cứ người dân nào đường về cù lao Ông Hổ thì ai cũng sẵn lòng và rất tận tình chỉ đường cụ thể. Mặc dù ngày nay, nơi đây có tên hành chính hẳn hoi nhưng không chỉ người dân địa phương mà người dân khắp xứ Nam kỳ lục tỉnh vẫn quen gọi là cù lao Ông Hổ. Trên cù lao đầy huyền thoại ấy đã sản sinh ra một người con ưu tú và là ngôi sao sáng của đất phương Nam. Cũng trên cù lao ấy, người dân cùng chính quyền địa phương, với lòng tôn kính lẫn hãnh diện của mình đã dựng lên Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Ðức Thắng trong khuôn viên bốn mùa hoa trái sum suê.

Người con ưu tú

Trên cù lao này vẫn còn lưu giữ dấu ấn thiếu thời của Bác Tôn. Trước đây, nơi này là ngôi nhà gỗ, do thân sinh của Bác Tôn là cụ Tôn Văn Ðề xây dựng vào năm 1887, với lối kiến trúc hình chữ Quốc, sàn lót ván 3 gian, 2 chái lợp bằng ngói âm dương cùng với những đồ vật, đồ dùng sinh hoạt trong gia đình. Luỹ tre xanh đầu ngõ soi bóng xuống sông Hậu theo thế “Long chầu Nguyệt”. Ðã mấy trăm năm nhưng luỹ tre vẫn xanh tốt; những ao cá trong vườn vẫn rực màu hoa sen, hoa súng; những vườn cây quanh năm hoa trái trĩu cành… Năm 1984, Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Ðức Thắng được Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch) quyết định xếp hạng Di tích Lịch sử quốc gia. Năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Khu di tích lưu niệm Chủ tịch Tôn Ðức Thắng là di tích quốc gia đặc biệt.

Nhân dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 110 của Chủ tịch Tôn Ðức Thắng (20/8/1888-20/8/1998), Nhân dân tỉnh An Giang đã tiến hành làm lễ khánh thành Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Ðức Thắng với nhiều công trình được xây dựng mới trên khuôn viên 6,7 ha. Trong đó, ngôi nhà thời niên thiếu và đền thờ tưởng niệm Bác Tôn được xây dựng trong khuôn viên 1.600 m2 với kiến trúc cổ lầu tam cấp đặc sắc, nơi chính điện là tượng Bác Tôn bằng đồng bán thân.

Tượng Bác Tôn tại TP Long Xuyên, tỉnh An Giang.

Ðối diện với đền thờ là nhà trưng bày về cuộc đời và sự nghiệp của Bác Tôn - nơi đây các hình ảnh, hiện vật, các tư liệu và phim hình sống động giúp chúng ta hiểu thêm về Bác, một tấm gương sáng của dân tộc ta về chí khí kiên cường, đạo đức cách mạng, lối sống khiêm tốn, giản dị.

Từ năm 1998 đến nay, trung bình mỗi năm có hơn 200.000 lượt khách đến thăm viếng nơi đây. Ðây cũng là địa điểm các cơ quan, đoàn thể tỉnh An Giang đến làm lễ dâng hương, báo công, kết nạp đảng viên, đoàn viên… Nhà bảo tàng với nhiều hiện vật quý, từ chiếc xe đạp Bác Tôn sử dụng như một hình thức rèn luyện thân thể đến mô hình máy bay từng chở Bác về thăm quê nhà.

Anh bạn đồng nghiệp từ Trà Vinh rất tâm đắc và cứ nhắc đi nhắc lại với chúng tôi khi được biết về việc cù lao Ông Hổ là vùng đất lấy chữ “Ðức” làm gốc, con người sống nhân hậu, nghĩa tình, thuỷ chung son sắt. Thuở Bác Tôn chào đời, cụ Tôn Văn Ðề và các bậc Nho học nhận thấy cậu con trai mặt mũi khôi ngô, tuấn tú, nhân tướng toát lên vẻ thanh cao, giàu chí khí nên đã dùng chữ đệm là “Ðức” trước tên “Thắng” và dự đoán: Cù lao này có long mạch, nhất định sau này cậu bé sẽ là người có công, gánh vác trọng trách của xã tắc, non sông.

Ngôi sao sáng

Bác Tôn sinh ngày 20/8/1888, tại cù lao Ông Hổ, làng Mỹ Hoà Hưng, tổng Ðịnh Thành, hạt Long Xuyên (nay thuộc ấp Mỹ An, xã Mỹ Hoà Hưng, TP Long Xuyên, tỉnh An Giang), là con trai đầu lòng của ông Tôn Văn Ðề và bà Nguyễn Thị Dị.

Gia đình Bác Tôn thuộc hàng nông dân khá giả nên từ nhỏ Bác được học hành đàng hoàng. Năm 1906, sau khi tốt nghiệp Sơ cấp tiểu học Ðông Dương tại Long Xuyên, Bác Tôn rời quê lên Sài Gòn học nghề thợ máy tại trường cơ khí. Tốt nghiệp hạng ưu, Bác được nhận vào làm công nhân ở Nhà máy Ba Son của Hải quân Pháp tại Sài Gòn.

Năm 1912, Bác Tôn tham gia tổ chức công nhân bãi công đòi quyền lợi, vì vậy bị sa thải. Năm 1913, Bác Tôn sang Pháp làm công nhân. Năm 1914, Bác được tuyển mộ làm lính thợ cho một đơn vị hải quân Pháp. Bác tham gia phản chiến chống lại cuộc can thiệp của Ðế quốc Pháp vào nước Nga Xô Viết tại Hắc Hải (ngày 20/4/1919), treo cờ đỏ trên một thiết giáp hạm của Pháp tại đây để ủng hộ Cách mạng Nga.

Năm 1920, Bác Tôn về nước, xây dựng cơ sở công hội (tiền thân của Công đoàn Việt Nam), vận động công nhân đấu tranh, bãi công... Năm 1927, Bác tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, là Uỷ viên Ban Chấp hành Thành bộ Sài Gòn và Kỳ bộ Nam Kỳ, được phân công trực tiếp phụ trách phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn. Năm 1929, Bác bị địch bắt tại chân cầu Kiệu và bị giam gần 1 năm tại Khám Lớn - Sài Gòn. Sau đó chúng tuyên án Bác 20 năm tù, đày đi Côn Ðảo. Mãi đến Cách mạng Tháng Tám thành công, chính Bác đã lái ca-nô đưa các tù chính trị Côn Ðảo về đất liền.

Bác Tôn là một trong những người Việt Nam đầu tiên tham gia đấu tranh bảo vệ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Sự cống hiến lớn lao của Bác Tôn cho nền độc lập dân tộc và hoà bình thế giới đã được Nhân dân thế giới kính nể. Bác Tôn là người Việt Nam đầu tiên được Giải thưởng Hoà bình Quốc tế Lênin, xứng đáng là một chiến sĩ xuất sắc của phong trào hoà bình thế giới.

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, nhiều năm bị đế quốc, thực dân giam cầm ở Nhà tù Côn Ðảo, Bác Tôn tỏ rõ ý chí, niềm tin và phẩm chất của một người cộng sản kiên cường. Ðế quốc Pháp đã bắt giam, đày đoạ Bác Tôn 17 năm trời ở Khám Lớn - Sài Gòn và nhà ngục Côn Ðảo với chế độ khổ sai (khi thì nhốt vào hầm xay lúa, khi thì nhốt vào hầm tối, tay chân bị xiềng xích, cùm kẹp, khi thì cho ăn lúa sống, hoặc bỏ đói, bỏ khát), nhưng Bác Tôn vẫn giữ vững tinh thần cách mạng kiên cường, trước sau vẫn không lay chuyển.

Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Bác Tôn trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến, giữ chức Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ (1945); là Phó ban Thường trực Quốc hội rồi Trưởng ban (tương đương Chủ tịch Quốc hội sau này). Bác là Ðại biểu Quốc hội liên tục các khoá I (1946) đến khoá VI (1981). Tháng 7/1960, Bác được bầu làm Phó chủ tịch nước. Tháng 9/1969, Bác được Quốc hội bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Sau ngày đất nước thống nhất, Bác là Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ 1976-1980). Với 27 năm liên tục làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và hơn 10 năm làm Chủ tịch nước, Bác Tôn đã để lại cho Ðảng, Nhà nước ta nhiều bài học sâu sắc, cho Nhân dân ta một tấm gương sáng về chuẩn mực sống của một công dân yêu nước.

Ngày 30/8/1980, Bác Tôn qua đời tại Hà Nội, thọ 92 tuổi.

Đền thờ Bác Tôn.

Tình bạn cao cả, vĩ đại

Bác Hồ và Bác Tôn là 2 ngôi sao sáng chói trên bầu trời cách mạng Việt Nam, 2 hạt kim cương lấp lánh của nền đạo đức cách mạng Việt Nam thời đại mới. Sự nghiệp cách mạng của dân tộc và tình cảm đặc biệt đã gắn bó 2 con người, 2 vị lãnh tụ: Bác Hồ và Bác Tôn như một tình đồng chí, tình bạn vĩ đại và cảm động.

Bác Hồ quý trọng Bác Tôn bao nhiêu thì Bác Tôn càng kính yêu và quý trọng Bác Hồ bấy nhiêu. Bác Tôn biết ơn Bác Hồ vì Bác Hồ là người đưa cả dân tộc ta thoát khỏi vòng nô lệ và cũng chính là người đưa Bác Tôn đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, chân lý của thời đại. Ở bất cứ đâu và trong bất cứ cuộc gặp mặt nào với cán bộ và Nhân dân, Bác Tôn đều căn dặn phải hết lòng hết sức thực hiện những lời dạy của Bác Hồ.

Lịch sử cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX, gắn liền với tên tuổi Hồ Chí Minh và Tôn Ðức Thắng, 2 vị Chủ tịch nước kính mến, hình ảnh tiêu biểu cho khối đại đoàn kết dân tộc. Tình cảm giữa Bác Hồ và Bác Tôn đã hình thành từ lâu, khi 2 bác còn chưa gặp nhau. Bác Tôn luôn coi Bác Hồ là vị lãnh tụ vĩ đại, còn Bác Hồ trân trọng Bác Tôn như một người đồng chí, một người bạn chiến đấu thân thiết, thuỷ chung. Những tấm ảnh còn đó trong khu lưu niệm như minh chứng tình cảm keo sơn giữa 2 vị chủ tịch mà chúng tôi có dịp “mục sở thị” làm lòng người rưng rưng, khoé mắt bỗng cay cay…

Tấm gương sáng cho thế hệ trẻ

Cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Tôn đã từng trải qua mọi thử thách - bị Ðế quốc Pháp bắt giam, đày đoạ nơi ngục tù Côn Ðảo với chế độ khổ sai, nhưng tinh thần cách mạng kiên cường của Bác trước sau như một. 15 năm bị đoạ đày địa ngục Côn Ðảo là thử thách lớn trong cuộc đời người chiến sĩ cách mạng Tôn Ðức Thắng. Trong những tháng ngày thử thách khốc liệt, Bác luôn tỏ rõ là một con người có nghị lực phi thường và sự trung thành vô hạn với Ðảng, với cách mạng. Vượt qua đòn thù và nhiều âm mưu thủ đoạn mua chuộc, lừa bịp thâm độc, Bác đã tỏ rõ bản lĩnh của một chiến sĩ cộng sản, vẫn tham gia thành lập và sinh hoạt chi bộ Ðảng, vẫn học tập lý luận Mác - Lênin, làm báo tuyên truyền cách mạng.  

Chủ tịch Tôn Ðức Thắng là một tấm gương cao đẹp về tinh thần hy sinh vì sự nghiệp của Ðảng và dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội và hạnh phúc của Nhân dân. Từ tấm gương yêu nước đó của Bác Tôn đã giáo dục cho thế hệ trẻ tình cảm trong sáng, lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính; giáo dục cho thế hệ trẻ tinh thần đoàn kết toàn dân tộc và quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Ðây còn là tấm gương mẫu mực về lối sống khiêm tốn, giản dị, chân thành, gần gũi đồng chí, đồng bào, nói đi đôi với làm, lý luận gắn liền với thực tiễn.

Di sản quý giá mà Bác Tôn để lại cho Ðảng ta, Nhân dân ta là phẩm chất đạo đức cao đẹp của người cộng sản, là sự hội tụ khí chất hào hiệp của người dân vùng sông nước Nam Bộ, là ý chí kiên cường và tài năng sáng tạo Việt Nam. Ðồng thời, là sự hội tụ tinh tuý của tinh thần yêu nước, thương dân, sự cảm thông, hoà đồng với đồng bào, đồng chí; niềm tin sắt đá vào thắng lợi của cách mạng, dù khó khăn, gian khổ, không dao động, một lòng, một dạ phục vụ Nhân dân.

Tấm gương của Bác đã khiến những người cầm bút chúng tôi có mặt tại khu lưu niệm tâm đắc, nằm lòng và cảnh giác trước những mặt trái của nền kinh tế thị trường hiện nay. Nếu không vững tay bút, nếu không có lòng trong thì sẽ dễ bị sa ngã. Tấm gương của Bác như đã tiếp thêm nghị lực cho mỗi người cầm bút chúng tôi trước cơn sóng to, bão lớn…

Ngày nay, cù lao Ông Hổ đã trở thành một địa chỉ du lịch văn hoá, giáo dục truyền thống về nguồn. Trước tôn tượng của Bác trong khu lưu niệm, chúng tôi cùng thắp nén hương để tưởng nhớ về Bác và tận đáy lòng mình, mỗi người làm báo chí thầm nguyện với quyết tâm học tập, noi theo tấm gương sáng ngời của người cộng sản trung kiên. Dù bất cứ tình huống nào cũng phải vượt qua như Bác đã từng vượt qua trong cuộc đời vì sự nghiệp cách mạng, vì giai cấp công nhân vô sản./.

 

Hoàng Liên Phương

 

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.