ĐT: 0939.923988
Thứ hai, 25-8-25 20:33:43
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Người phụ nữ trung kiên

Báo Cà Mau Bà Nguyễn Thị Hồng (Nguyễn Thị Mỳ) sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng ở ấp Cái Rắn, xã Phú Hưng, huyện Cái Nước. Cha bà là lớp cán bộ tiền bối thời kỳ chống Pháp. Sau Hiệp định Geneva năm 1954, bà được bố trí ở lại miền Nam.

Bà Nguyễn Thị Hồng (Nguyễn Thị Mỳ) sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng ở ấp Cái Rắn, xã Phú Hưng, huyện Cái Nước. Cha bà là lớp cán bộ tiền bối thời kỳ chống Pháp. Sau Hiệp định Geneva năm 1954, bà được bố trí ở lại miền Nam.

Khi Luật 10/59 lê máy chém khắp nơi, bà đang phụ trách nhiệm vụ của một thường vụ xã đoàn. Giặc bủa vây, bố ráp, ban ngày bà sống dưới hầm bí mật, ban đêm mới đi hoạt động, suốt ba năm không thấy mặt trời. Thời kỳ đẹp nhất của người con gái, bà không biết đến gương, lược, không mộng mơ hạnh phúc riêng tư, chỉ quyết tâm làm tròn trách nhiệm, góp phần cho cuộc kháng chiến sớm thành công.

Cô Lê Thị Hồng trả lời phỏng vấn phóng viên Tạp chí Văn nghệ Cà Mau.

Biết bao lần bị địch bắt nhưng lần sa vào tay giặc ở xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước vào tháng 11/1958 bà nhớ nhất. Năm đó trời lạnh như cắt, giặc đi càn ở rạch Biện Tràng, sau nhiều giờ quần nát khu vực gần nơi họp, chúng phát hiện chiếc xuồng, vũ khí và tài liệu rồi bắt bà. Cả toán lính điên cuồng trút lên bà trận đòn chí mạng, sau đó chúng giải bà về Chi khu Cái Nước và bắt đầu cuộc tra tấn dài ngày.

Thân thể bầm dập, cái chết cận kề bởi bà nằm trong danh sách bị hành quyết. Nhờ cơ sở của ta nằm trong hàng ngũ địch đã “tương kế tựu kế” giải cứu cho bà. Sau khi thoát thân, bọn chúng phát hiện 6 người làm nội tuyến, chúng thâm hiểm ly gián nội bộ, dùng ba người chặt đầu đồng đội. Sự hy sinh của ba đồng đội ấy là nỗi đau lớn trong lòng bà.

Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân Mậu Thân năm 1968, bà có mặt trong lực lượng đánh vào thị xã. Giặc phản công, quân ta phải rút về, rủi thay bà bị kẹt lại. Thời điểm đó giặc điên cuồng truy sát những người cán bộ chưa rút kịp nên gia đình chí cốt cũng rất ngại chứa chấp người của cách mạng. Cuối cùng bà được một gia đình ở chợ phường 2, gần bến đò Rạch Rập cho ở, chờ thời cơ để về căn cứ.

Ban ngày bà phải trầm mình dưới sàn nhà, nước ngập tới cổ, 9-10 giờ tối mới được lên, bốn giờ sáng phải trở xuống nước ẩn mình. Sáu ngày liền phải chịu cảnh đói, lạnh bà gần như kiệt sức. Nhưng lúc thoát thân, bà lại bị địch bắt, bị tống vô nhà giam lần nữa. Cuối cùng không khai thác được gì, chúng thả bà về.

Ðến năm 1970, bà bị bắt tại rạch Bù Mắc. Bốn tháng tù nằm ở Khám Lớn Cà Mau, những cực hình tàn bạo trút lên người con gái yếu đuối làm bà bị liệt nửa người không tự lực được sinh hoạt cá nhân. Nhờ bạn tù chăm sóc nên còn giữ được tính mạng của mình nhưng teo tóp chỉ con hơn 30 kg.

Hai mươi năm hoạt động bí mật, bà đã trải qua qua 10 cái hầm bí mật ở trong vùng giải phóng và cả ngoài thành. Những nơi bà ở thường là nhà của người có dính líu đến nguỵ quân, nguỵ quyền để tránh sự dòm ngó của bọn mật thám hoặc ở nhà người bị bệnh truyền nhiễm (phong, lao) để bọn giặc tránh xa. Ở đâu bà cũng được bà con đùm bọc, chở che. Bà nhớ rõ từng căn nhà, tên người và những lần họ dũng cảm cứu bà thoát khỏi nanh vuốt kẻ thù nên ơn nghĩa lớn lao này lúc nào bà cũng mang nặng trong lòng.

Sau ngày giải phóng, bà được cử đi học tại Liên Xô và bảo vệ luận án tốt nghiệp sau đại học đạt loại giỏi. Trở về nước, bà được phân công giảng dạy tại Trường Tuyên huấn Trung ương (Thủ Ðức). Tại đây, bà có 21 năm là Trưởng khoa Xây dựng Ðảng cho đến ngày nghỉ hưu.

Không chỉ làm công tác giảng dạy ở Trường Tuyên huấn Trung ương, trong kháng chiến chống Mỹ, bà từng phụ trách Thường trực Ban Tuyên huấn Tỉnh uỷ và 10 năm làm công tác huấn học ở Cà Mau.

Năm nay đã 78 tuổi đời, gần 60 tuổi Ðảng nhưng bà còn rất minh mẫn. Suốt đời tận tuỵ cống hiến, trung thành tuyệt đối với Ðảng và Nhân dân, bà được Ðảng, Nhà nước tặng nhiều huân, huy chương. Nhưng có lẽ tấm huy chương mà bà trân trọng nhất đó là niềm tin yêu của những gia đình chí cốt đối với mình, và bà cũng thường xuyên làm công việc nghĩa tình để đền ơn đáp nghĩa./.

Bài và ảnh: Lê Ngọc Diễm

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 2: Tìm hài cốt liệt sĩ nơi xứ người

Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ được Đảng, Nhà nước, Quân đội và thân nhân liệt sĩ được tăng cường, bất kể thời tiết, địa hình trắc trở. Dẫu lắm vất vả, gian truân nhưng là hành trình tri ân về tình đồng đội, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về

LTS: Vào ngày 17/7/2024, Bộ Công an ban hành Kế hoạch số 356/KH-BCA-C06 về việc triển khai thu nhận mẫu ADN cho thân nhân của liệt sĩ chưa xác nhận được danh tính trên toàn quốc. Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà là Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin, đã chỉ đạo một cách sát sao đối với công an của các tỉnh, thành phố. Hoạt động ý nghĩa, nhân văn này nhằm đưa hài cốt các anh hùng liệt sĩ về đất mẹ an táng với tên họ và thông tin đầy đủ nhất, thể hiện sự tri ân mà thế hệ hôm nay đối với thế hệ đi trước.

Những chi bộ đảng đầu tiên ở Cà Mau

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3/2/1930) dưới sự sáng lập và rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam với con đường kiên định: Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. 

Trung đoàn Đặc công Đ10 kỷ niệm 80 năm thành lập

Ngày 9/8, Trung đoàn Đặc công Đ10 Anh hùng long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập, khẳng định truyền thống vẻ vang và tiếp nối ngọn lửa nhiệt huyết cách mạng cho thế hệ sau.

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.