Thứ ba, 16-9-25 21:23:06
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Người phụ nữ trung kiên

Báo Cà Mau Bà Nguyễn Thị Hồng (Nguyễn Thị Mỳ) sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng ở ấp Cái Rắn, xã Phú Hưng, huyện Cái Nước. Cha bà là lớp cán bộ tiền bối thời kỳ chống Pháp. Sau Hiệp định Geneva năm 1954, bà được bố trí ở lại miền Nam.

Bà Nguyễn Thị Hồng (Nguyễn Thị Mỳ) sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng ở ấp Cái Rắn, xã Phú Hưng, huyện Cái Nước. Cha bà là lớp cán bộ tiền bối thời kỳ chống Pháp. Sau Hiệp định Geneva năm 1954, bà được bố trí ở lại miền Nam.

Khi Luật 10/59 lê máy chém khắp nơi, bà đang phụ trách nhiệm vụ của một thường vụ xã đoàn. Giặc bủa vây, bố ráp, ban ngày bà sống dưới hầm bí mật, ban đêm mới đi hoạt động, suốt ba năm không thấy mặt trời. Thời kỳ đẹp nhất của người con gái, bà không biết đến gương, lược, không mộng mơ hạnh phúc riêng tư, chỉ quyết tâm làm tròn trách nhiệm, góp phần cho cuộc kháng chiến sớm thành công.

Cô Lê Thị Hồng trả lời phỏng vấn phóng viên Tạp chí Văn nghệ Cà Mau.

Biết bao lần bị địch bắt nhưng lần sa vào tay giặc ở xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước vào tháng 11/1958 bà nhớ nhất. Năm đó trời lạnh như cắt, giặc đi càn ở rạch Biện Tràng, sau nhiều giờ quần nát khu vực gần nơi họp, chúng phát hiện chiếc xuồng, vũ khí và tài liệu rồi bắt bà. Cả toán lính điên cuồng trút lên bà trận đòn chí mạng, sau đó chúng giải bà về Chi khu Cái Nước và bắt đầu cuộc tra tấn dài ngày.

Thân thể bầm dập, cái chết cận kề bởi bà nằm trong danh sách bị hành quyết. Nhờ cơ sở của ta nằm trong hàng ngũ địch đã “tương kế tựu kế” giải cứu cho bà. Sau khi thoát thân, bọn chúng phát hiện 6 người làm nội tuyến, chúng thâm hiểm ly gián nội bộ, dùng ba người chặt đầu đồng đội. Sự hy sinh của ba đồng đội ấy là nỗi đau lớn trong lòng bà.

Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân Mậu Thân năm 1968, bà có mặt trong lực lượng đánh vào thị xã. Giặc phản công, quân ta phải rút về, rủi thay bà bị kẹt lại. Thời điểm đó giặc điên cuồng truy sát những người cán bộ chưa rút kịp nên gia đình chí cốt cũng rất ngại chứa chấp người của cách mạng. Cuối cùng bà được một gia đình ở chợ phường 2, gần bến đò Rạch Rập cho ở, chờ thời cơ để về căn cứ.

Ban ngày bà phải trầm mình dưới sàn nhà, nước ngập tới cổ, 9-10 giờ tối mới được lên, bốn giờ sáng phải trở xuống nước ẩn mình. Sáu ngày liền phải chịu cảnh đói, lạnh bà gần như kiệt sức. Nhưng lúc thoát thân, bà lại bị địch bắt, bị tống vô nhà giam lần nữa. Cuối cùng không khai thác được gì, chúng thả bà về.

Ðến năm 1970, bà bị bắt tại rạch Bù Mắc. Bốn tháng tù nằm ở Khám Lớn Cà Mau, những cực hình tàn bạo trút lên người con gái yếu đuối làm bà bị liệt nửa người không tự lực được sinh hoạt cá nhân. Nhờ bạn tù chăm sóc nên còn giữ được tính mạng của mình nhưng teo tóp chỉ con hơn 30 kg.

Hai mươi năm hoạt động bí mật, bà đã trải qua qua 10 cái hầm bí mật ở trong vùng giải phóng và cả ngoài thành. Những nơi bà ở thường là nhà của người có dính líu đến nguỵ quân, nguỵ quyền để tránh sự dòm ngó của bọn mật thám hoặc ở nhà người bị bệnh truyền nhiễm (phong, lao) để bọn giặc tránh xa. Ở đâu bà cũng được bà con đùm bọc, chở che. Bà nhớ rõ từng căn nhà, tên người và những lần họ dũng cảm cứu bà thoát khỏi nanh vuốt kẻ thù nên ơn nghĩa lớn lao này lúc nào bà cũng mang nặng trong lòng.

Sau ngày giải phóng, bà được cử đi học tại Liên Xô và bảo vệ luận án tốt nghiệp sau đại học đạt loại giỏi. Trở về nước, bà được phân công giảng dạy tại Trường Tuyên huấn Trung ương (Thủ Ðức). Tại đây, bà có 21 năm là Trưởng khoa Xây dựng Ðảng cho đến ngày nghỉ hưu.

Không chỉ làm công tác giảng dạy ở Trường Tuyên huấn Trung ương, trong kháng chiến chống Mỹ, bà từng phụ trách Thường trực Ban Tuyên huấn Tỉnh uỷ và 10 năm làm công tác huấn học ở Cà Mau.

Năm nay đã 78 tuổi đời, gần 60 tuổi Ðảng nhưng bà còn rất minh mẫn. Suốt đời tận tuỵ cống hiến, trung thành tuyệt đối với Ðảng và Nhân dân, bà được Ðảng, Nhà nước tặng nhiều huân, huy chương. Nhưng có lẽ tấm huy chương mà bà trân trọng nhất đó là niềm tin yêu của những gia đình chí cốt đối với mình, và bà cũng thường xuyên làm công việc nghĩa tình để đền ơn đáp nghĩa./.

Bài và ảnh: Lê Ngọc Diễm

Sáng mãi di nguyện của Người

Tháng 5/1965, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đặt bút viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc, được Người gọi là “để lại mấy lời....” phòng khi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Ðảng khỏi cảm thấy đột ngột.

Dấu ấn hoạt động đồng chí Võ Văn Kiệt tại Cà Mau

Ðồng chí Võ Văn Kiệt - nguyên Thủ tướng Chính phủ, người được biết đến với bí danh “chú Sáu Dân” thân thương. Đồng chí đã hoạt động cách mạng, gắn bó với mảnh đất, con người Cà Mau.Trên địa bàn tỉnh hiện có 2 di tích lịch sử lưu dấu “chú Sáu Dân” với niềm tri ân, tưởng nhớ của người dân Cà Mau với đồng chí, gồm Di tích cấp tỉnh Nơi ở và Làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt, ở xã U Minh và Di tích Quốc gia đặc biệt Căn cứ Cái Chanh, ở xã Ninh Thạnh Lợi.

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...

Quốc khánh trong ký ức Mẹ Việt Nam anh hùng

80 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về ngày 2/9/1945 vẫn rực sáng trong lòng dân tộc. Giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh cất cao lời Tuyên ngôn độc lập đã khiến hàng triệu trái tim Việt Nam vỡ oà, từ thân phận nô lệ trở thành người tự do. Với các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) ở Cà Mau, ký ức về ngày Quốc khánh đầu tiên ấy mãi là niềm tự hào thiêng liêng, theo suốt cả cuộc đời.

Lê Khắc Xương - Nhà lãnh đạo kiên trung

Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở vùng đất cực Nam Tổ quốc, cách Hà Nội hàng ngàn cây số, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau) đã giành chính quyền chỉ sau Thủ đô Hà Nội 4 ngày. Ðằng sau thắng lợi ấy có vai trò quyết định của đồng chí Lê Khắc Xương, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh khu vực Bạc Liêu - nhà lãnh đạo kiên trung, người đảng viên mẫu mực.

Nghĩ về ba bản tuyên ngôn

Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.