ĐT: 0939.923988
Thứ ba, 22-4-25 06:58:26
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Người phụ nữ trung kiên

Báo Cà Mau Bà Nguyễn Thị Hồng (Nguyễn Thị Mỳ) sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng ở ấp Cái Rắn, xã Phú Hưng, huyện Cái Nước. Cha bà là lớp cán bộ tiền bối thời kỳ chống Pháp. Sau Hiệp định Geneva năm 1954, bà được bố trí ở lại miền Nam.

Bà Nguyễn Thị Hồng (Nguyễn Thị Mỳ) sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng ở ấp Cái Rắn, xã Phú Hưng, huyện Cái Nước. Cha bà là lớp cán bộ tiền bối thời kỳ chống Pháp. Sau Hiệp định Geneva năm 1954, bà được bố trí ở lại miền Nam.

Khi Luật 10/59 lê máy chém khắp nơi, bà đang phụ trách nhiệm vụ của một thường vụ xã đoàn. Giặc bủa vây, bố ráp, ban ngày bà sống dưới hầm bí mật, ban đêm mới đi hoạt động, suốt ba năm không thấy mặt trời. Thời kỳ đẹp nhất của người con gái, bà không biết đến gương, lược, không mộng mơ hạnh phúc riêng tư, chỉ quyết tâm làm tròn trách nhiệm, góp phần cho cuộc kháng chiến sớm thành công.

Cô Lê Thị Hồng trả lời phỏng vấn phóng viên Tạp chí Văn nghệ Cà Mau.

Biết bao lần bị địch bắt nhưng lần sa vào tay giặc ở xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước vào tháng 11/1958 bà nhớ nhất. Năm đó trời lạnh như cắt, giặc đi càn ở rạch Biện Tràng, sau nhiều giờ quần nát khu vực gần nơi họp, chúng phát hiện chiếc xuồng, vũ khí và tài liệu rồi bắt bà. Cả toán lính điên cuồng trút lên bà trận đòn chí mạng, sau đó chúng giải bà về Chi khu Cái Nước và bắt đầu cuộc tra tấn dài ngày.

Thân thể bầm dập, cái chết cận kề bởi bà nằm trong danh sách bị hành quyết. Nhờ cơ sở của ta nằm trong hàng ngũ địch đã “tương kế tựu kế” giải cứu cho bà. Sau khi thoát thân, bọn chúng phát hiện 6 người làm nội tuyến, chúng thâm hiểm ly gián nội bộ, dùng ba người chặt đầu đồng đội. Sự hy sinh của ba đồng đội ấy là nỗi đau lớn trong lòng bà.

Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân Mậu Thân năm 1968, bà có mặt trong lực lượng đánh vào thị xã. Giặc phản công, quân ta phải rút về, rủi thay bà bị kẹt lại. Thời điểm đó giặc điên cuồng truy sát những người cán bộ chưa rút kịp nên gia đình chí cốt cũng rất ngại chứa chấp người của cách mạng. Cuối cùng bà được một gia đình ở chợ phường 2, gần bến đò Rạch Rập cho ở, chờ thời cơ để về căn cứ.

Ban ngày bà phải trầm mình dưới sàn nhà, nước ngập tới cổ, 9-10 giờ tối mới được lên, bốn giờ sáng phải trở xuống nước ẩn mình. Sáu ngày liền phải chịu cảnh đói, lạnh bà gần như kiệt sức. Nhưng lúc thoát thân, bà lại bị địch bắt, bị tống vô nhà giam lần nữa. Cuối cùng không khai thác được gì, chúng thả bà về.

Ðến năm 1970, bà bị bắt tại rạch Bù Mắc. Bốn tháng tù nằm ở Khám Lớn Cà Mau, những cực hình tàn bạo trút lên người con gái yếu đuối làm bà bị liệt nửa người không tự lực được sinh hoạt cá nhân. Nhờ bạn tù chăm sóc nên còn giữ được tính mạng của mình nhưng teo tóp chỉ con hơn 30 kg.

Hai mươi năm hoạt động bí mật, bà đã trải qua qua 10 cái hầm bí mật ở trong vùng giải phóng và cả ngoài thành. Những nơi bà ở thường là nhà của người có dính líu đến nguỵ quân, nguỵ quyền để tránh sự dòm ngó của bọn mật thám hoặc ở nhà người bị bệnh truyền nhiễm (phong, lao) để bọn giặc tránh xa. Ở đâu bà cũng được bà con đùm bọc, chở che. Bà nhớ rõ từng căn nhà, tên người và những lần họ dũng cảm cứu bà thoát khỏi nanh vuốt kẻ thù nên ơn nghĩa lớn lao này lúc nào bà cũng mang nặng trong lòng.

Sau ngày giải phóng, bà được cử đi học tại Liên Xô và bảo vệ luận án tốt nghiệp sau đại học đạt loại giỏi. Trở về nước, bà được phân công giảng dạy tại Trường Tuyên huấn Trung ương (Thủ Ðức). Tại đây, bà có 21 năm là Trưởng khoa Xây dựng Ðảng cho đến ngày nghỉ hưu.

Không chỉ làm công tác giảng dạy ở Trường Tuyên huấn Trung ương, trong kháng chiến chống Mỹ, bà từng phụ trách Thường trực Ban Tuyên huấn Tỉnh uỷ và 10 năm làm công tác huấn học ở Cà Mau.

Năm nay đã 78 tuổi đời, gần 60 tuổi Ðảng nhưng bà còn rất minh mẫn. Suốt đời tận tuỵ cống hiến, trung thành tuyệt đối với Ðảng và Nhân dân, bà được Ðảng, Nhà nước tặng nhiều huân, huy chương. Nhưng có lẽ tấm huy chương mà bà trân trọng nhất đó là niềm tin yêu của những gia đình chí cốt đối với mình, và bà cũng thường xuyên làm công việc nghĩa tình để đền ơn đáp nghĩa./.

Bài và ảnh: Lê Ngọc Diễm

Trang sử Cà Mau thời kháng chiến năm 1973

Sau Hiệp định Paris năm 1973, về mặt đấu tranh công khai, Ban Liên hợp quân sự 4 bên khu vực 4 (Quân khu 9), do đồng chí Hoàng Hà làm Trưởng ban, đồng chí Phạm Văn Liêm làm Phó ban, Tổ liên hợp Cà Mau do đồng chí Tống Kỳ Hiệp và đồng chí Trịnh Thành Kế phụ trách đã đấu tranh chống lại sự vi phạm Hiệp định của địch trong khu vực. Ta buộc địch công nhận vùng tự do của ta ở Cà Mau và đã thực hiện việc trao trả tù binh ở Kinh Ba, xã Quách Phẩm, huyện Ngọc Hiển (Tư Kháng), Ðầm Dơi ngày nay.

Về “Đất thép thành đồng”

Thiết thực các hoạt động chào mừng kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025), kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh (26/3/1931-26/3/2025), ngày 30/3, đồng chí Nguyễn Hồ Hải, Bí thư Tỉnh uỷ, cùng đoàn cán bộ Tỉnh đoàn đã có chuyến hành trình giáo dục truyền thống, về nguồn tại "Ðất thép thành đồng": Củ Chi - TP Hồ Chí Minh.

“Chùa Cộng sản” ở làng Thạnh Phú - Dấu xưa một thời

Trong hành trình tìm về quá khứ, có những việc tuy ngoài sách sử, nhưng lại đậm sâu trong ký ức nhiều người. Ðó cũng là câu chuyện về “chùa Cộng sản” ở làng Thạnh Phú, nay thuộc ấp Sở Tại, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước.

Những ngày tháng Ba của mùa Xuân đại thắng

Nửa thế kỷ đã qua kể từ mùa Xuân đại thắng 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, Bắc - Nam sum họp một nhà, đất nước thống nhất, kết thúc thắng lợi vẻ vang cuộc kháng chiến của dân tộc chống lại đế quốc sừng sỏ và bè lũ tay sai. Tháng 3/1975 là “đêm trước” của ngưỡng cửa chiến thắng. Cục diện chiến trường chuyển biến mau lẹ; không khí cách mạng dâng cao sục sôi; cùng với đó là sự lãnh đạo, chỉ đạo bằng tất cả ý chí, niềm tin, sức mạnh của Đảng ta, để toàn dân tộc cùng nhau kề vai chung sức, chớp lấy thời cơ, làm nên một chiến thắng vang dội, hào hùng, bất tử.

Thân thương hai tiếng Cà Mau

Cà Mau không chỉ là điểm cuối của đất nước, nơi ai cũng mong một lần được ghi dấu bước chân mình tại cột mốc toạ độ, mà còn là vùng đất để lại trong tim nhiều người những tình cảm khó quên.

Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng - Lịch sử không thể lãng quên

Tôi đồng tình với ông Sáu Sơn (ông Ðỗ Văn Nghiệp, tác giả chủ trì đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh “Ðiều tra, sưu tầm chứng tích tội ác Mỹ - Nguỵ tại Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng” cách đây 20 năm), rằng: “Khép lại quá khứ, không có nghĩa là lãng quên quá khứ. Bài học đúc kết từ quá khứ là bài học bằng xương máu, sẽ có nhiều bổ ích cho hiện tại và tương lai”.

Bến Dựa một lần về

Bến Dựa chỉ là một đoạn sông ngắn, hằng ngày cần mẫn làm người trung chuyển đưa nước lớn về ngã ba Cái Đuốc, ngọn Cái Ngay; tiễn nước ròng ra Cái Nháp, đổ ra ngã ba Tam Giang, xuôi về biển cả. Khu rừng bên bờ Đông Bến Dựa nơi cơ quan Huyện uỷ Tư Kháng (Đầm Dơi ngày nay), làng rừng Huỳnh Ngọc Điệp tồn tại.

Chiều Sài Gòn

Tựa bài viết “Chiều Sài Gòn” nghe như chơi vơi, rất xưa, bởi Sài Gòn - Gia Ðịnh đã có hơn 300 năm tuổi, thì đồng nghĩa cũng có hơn một triệu buổi chiều. Nhưng “Chiều Sài Gòn” tôi viết đây chỉ là chiều 30/4/1975, buổi chiều đầu tiên “Sài Gòn ơi ta đã về đây” như lời bài hát một thời có sức hút mạnh mẽ.

Huyền thoại biệt động thành Cà Mau

Thị xã Cà Mau những năm cuối thập niên 1950, dưới chế độ Mỹ - Diệm, không khí ngột ngạt bởi những cuộc càn quét, bắt bớ. Đám cảnh sát mật vụ, lính bảo an lùng sục khắp nơi, ráo riết truy lùng những người kháng chiến cũ, những người mà chúng nghi là "Việt cộng nằm vùng".

Thăm địa chỉ đỏ

Di tích Hồng Anh Thư Quán (số 43, đường Phạm Văn Ký, Phường 2, TP Cà Mau) là một trong những di tích lịch sử hiếm hoi ghi dấu chặng đường cách mạng của người Cà Mau trước năm 1930. Hồng Anh Thư Quán được công nhận Di tích lịch sử - văn hoá cấp Quốc gia ngày 4/8/1992.