ĐT: 0939.923988
Thứ hai, 7-7-25 08:10:25
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Người phụ nữ trung kiên

Báo Cà Mau Bà Nguyễn Thị Hồng (Nguyễn Thị Mỳ) sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng ở ấp Cái Rắn, xã Phú Hưng, huyện Cái Nước. Cha bà là lớp cán bộ tiền bối thời kỳ chống Pháp. Sau Hiệp định Geneva năm 1954, bà được bố trí ở lại miền Nam.

Bà Nguyễn Thị Hồng (Nguyễn Thị Mỳ) sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng ở ấp Cái Rắn, xã Phú Hưng, huyện Cái Nước. Cha bà là lớp cán bộ tiền bối thời kỳ chống Pháp. Sau Hiệp định Geneva năm 1954, bà được bố trí ở lại miền Nam.

Khi Luật 10/59 lê máy chém khắp nơi, bà đang phụ trách nhiệm vụ của một thường vụ xã đoàn. Giặc bủa vây, bố ráp, ban ngày bà sống dưới hầm bí mật, ban đêm mới đi hoạt động, suốt ba năm không thấy mặt trời. Thời kỳ đẹp nhất của người con gái, bà không biết đến gương, lược, không mộng mơ hạnh phúc riêng tư, chỉ quyết tâm làm tròn trách nhiệm, góp phần cho cuộc kháng chiến sớm thành công.

Cô Lê Thị Hồng trả lời phỏng vấn phóng viên Tạp chí Văn nghệ Cà Mau.

Biết bao lần bị địch bắt nhưng lần sa vào tay giặc ở xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước vào tháng 11/1958 bà nhớ nhất. Năm đó trời lạnh như cắt, giặc đi càn ở rạch Biện Tràng, sau nhiều giờ quần nát khu vực gần nơi họp, chúng phát hiện chiếc xuồng, vũ khí và tài liệu rồi bắt bà. Cả toán lính điên cuồng trút lên bà trận đòn chí mạng, sau đó chúng giải bà về Chi khu Cái Nước và bắt đầu cuộc tra tấn dài ngày.

Thân thể bầm dập, cái chết cận kề bởi bà nằm trong danh sách bị hành quyết. Nhờ cơ sở của ta nằm trong hàng ngũ địch đã “tương kế tựu kế” giải cứu cho bà. Sau khi thoát thân, bọn chúng phát hiện 6 người làm nội tuyến, chúng thâm hiểm ly gián nội bộ, dùng ba người chặt đầu đồng đội. Sự hy sinh của ba đồng đội ấy là nỗi đau lớn trong lòng bà.

Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân Mậu Thân năm 1968, bà có mặt trong lực lượng đánh vào thị xã. Giặc phản công, quân ta phải rút về, rủi thay bà bị kẹt lại. Thời điểm đó giặc điên cuồng truy sát những người cán bộ chưa rút kịp nên gia đình chí cốt cũng rất ngại chứa chấp người của cách mạng. Cuối cùng bà được một gia đình ở chợ phường 2, gần bến đò Rạch Rập cho ở, chờ thời cơ để về căn cứ.

Ban ngày bà phải trầm mình dưới sàn nhà, nước ngập tới cổ, 9-10 giờ tối mới được lên, bốn giờ sáng phải trở xuống nước ẩn mình. Sáu ngày liền phải chịu cảnh đói, lạnh bà gần như kiệt sức. Nhưng lúc thoát thân, bà lại bị địch bắt, bị tống vô nhà giam lần nữa. Cuối cùng không khai thác được gì, chúng thả bà về.

Ðến năm 1970, bà bị bắt tại rạch Bù Mắc. Bốn tháng tù nằm ở Khám Lớn Cà Mau, những cực hình tàn bạo trút lên người con gái yếu đuối làm bà bị liệt nửa người không tự lực được sinh hoạt cá nhân. Nhờ bạn tù chăm sóc nên còn giữ được tính mạng của mình nhưng teo tóp chỉ con hơn 30 kg.

Hai mươi năm hoạt động bí mật, bà đã trải qua qua 10 cái hầm bí mật ở trong vùng giải phóng và cả ngoài thành. Những nơi bà ở thường là nhà của người có dính líu đến nguỵ quân, nguỵ quyền để tránh sự dòm ngó của bọn mật thám hoặc ở nhà người bị bệnh truyền nhiễm (phong, lao) để bọn giặc tránh xa. Ở đâu bà cũng được bà con đùm bọc, chở che. Bà nhớ rõ từng căn nhà, tên người và những lần họ dũng cảm cứu bà thoát khỏi nanh vuốt kẻ thù nên ơn nghĩa lớn lao này lúc nào bà cũng mang nặng trong lòng.

Sau ngày giải phóng, bà được cử đi học tại Liên Xô và bảo vệ luận án tốt nghiệp sau đại học đạt loại giỏi. Trở về nước, bà được phân công giảng dạy tại Trường Tuyên huấn Trung ương (Thủ Ðức). Tại đây, bà có 21 năm là Trưởng khoa Xây dựng Ðảng cho đến ngày nghỉ hưu.

Không chỉ làm công tác giảng dạy ở Trường Tuyên huấn Trung ương, trong kháng chiến chống Mỹ, bà từng phụ trách Thường trực Ban Tuyên huấn Tỉnh uỷ và 10 năm làm công tác huấn học ở Cà Mau.

Năm nay đã 78 tuổi đời, gần 60 tuổi Ðảng nhưng bà còn rất minh mẫn. Suốt đời tận tuỵ cống hiến, trung thành tuyệt đối với Ðảng và Nhân dân, bà được Ðảng, Nhà nước tặng nhiều huân, huy chương. Nhưng có lẽ tấm huy chương mà bà trân trọng nhất đó là niềm tin yêu của những gia đình chí cốt đối với mình, và bà cũng thường xuyên làm công việc nghĩa tình để đền ơn đáp nghĩa./.

Bài và ảnh: Lê Ngọc Diễm

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Ðài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến - Tiếng nói của khát vọng độc lập, tự do

Đài Nam Bộ Kháng chiến ra đời những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947-1954). Có lúc đóng ở Ðồng Tháp Mười (Long An); có giai đoạn ở Thới Bình, Ðầm Dơi, Ngọc Hiển, U Minh (Cà Mau), hay Kiên Giang, Bạc Liêu; có thời điểm đài đổi tên thành Ðài Tiếng nói Nam Bộ. Tuy vậy, dù ở bất cứ nơi đâu, tên gọi khác nhau, nhưng các thế hệ cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên của đài không ai được đào tạo bài bản về phát thanh nhưng đã làm nên một đài phát thanh vang danh, lừng lẫy; tạo dấu ấn đặc biệt trong lịch sử báo chí Việt Nam nói chung và ngành phát thanh nói riêng. Ðó là tiếng nói của Uỷ ban Nam Bộ Kháng chiến; cầu nối của Ðảng, Bác Hồ với đồng bào Nam Bộ; là ước mong, khát vọng của đồng bào nơi đây về một Việt Nam độc lập, tự do.

Những khó khăn, thách thức của người làm báo trong thời kháng chiến

Mùa khô năm 1964, lần thứ hai tôi theo mẹ từ Bến Tre vào Cà Mau thăm ba tôi đang làm ruộng và dạy học tư ở Kinh Hãng Giữa... Ba tôi bất hợp pháp kể từ năm bác ruột thứ tư của tôi - 1 trong 12 người Việt Minh làng Ba Mỹ bị giặc Pháp bắt chặt đầu ở bót Nhà Việc Mỹ Chánh năm 1946... Lần này, ba tôi không cho tôi trở về quê nữa, vì về ngoải mai mốt lớn lên tụi giặc nó bắt lính... Thế là tôi phải ở lại trong này, thành công dân Cà Mau từ đó.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.