ĐT: 0939.923988
Thứ ba, 26-8-25 08:17:40
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nghĩ về ba bản tuyên ngôn

Báo Cà Mau Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).

Bước vào thế kỷ XXI, 195 quốc gia trên thế giới đang hoà chung với dòng chảy lịch sử nhân loại. Các quốc gia, dân tộc dù lớn hay nhỏ, đều là bộ phận không thể tách rời của lịch sử thế giới. Song lịch sử, truyền thống, bản sắc mỗi quốc gia, dân tộc không thể hoà tan trong thế giới muôn màu.

Theo GS-NGND Nguyễn Ngọc Lanh, sớm nhất trong số 75 bản tuyên ngôn độc lập trên thế giới là bản của Scotland, khi nước này thoát khỏi sự thống trị của Anh vào năm 1320.

Song, theo tôi nghĩ, bài thơ "Nam quốc sơn hà" cần được ghi nhận là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên trên thế giới, vì nó xuất hiện vào năm 1077, khi nước ta đánh tan quân xâm lược nhà Tống, trước bản tuyên ngôn độc lập của Scotland 243 năm.

Lịch sử và dân gian đều ghi nhận, với lời thơ đanh thép, "Nam quốc sơn hà", chính thức tuyên bố với phong kiến phương Bắc: Nam quốc là nước độc lập, ngang hàng với quốc gia phong kiến phương Bắc. Nếu xâm phạm bờ cõi nước Nam, giặc Bắc sẽ thua tan tành.

Sử sách ghi rằng, năm 1076, nhà Tống xua 100.000 quân, 10.000 ngựa và 200.000 dân phu tiến đánh Ðại Việt. Chính trong trận này, tại phòng tuyến sông Như Nguyệt, khi quân Tống sa vào trận địa của Lý Thường Kiệt, bị cắt hoàn toàn chi viện. Lương thảo thiếu thốn, quân Tống mỏi mệt, ốm yếu... thêm vào đó, quân Ðại Việt liên tục tập kích, khiến quan quân nhà Tống hãi hùng đến tột cùng. Ðêm đêm, Lý Thường Kiệt cho người tâm phúc ngâm bài thơ từ đền thờ Trương Hống, Trương Hát. Lời thơ trầm bổng, uy lực như "thơ thần"; được phát ra từ hồn thiêng sông núi, khiến quân Tống càng kinh hồn, bạt vía: "Sông núi nước Nam, vua Nam ở/ Rành rành định phận tại sách trời/ Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm/ Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời".

Biết được quân Tống đã ở vào thế khốn cùng, để tránh hoạ binh đao khổ dân hai nước, Lý Thường Kiệt sai người đi nghị hoà. Chỉ huy quân Tống là Quách Quỳ như người chết đuối vớ được cọc, vội vã chấp nhận giảng hoà, rút tàn quân về nước vào tháng 3/1077 mà còn tim đập chân run, quỳ xuống tâu với vua Tống: "Cũng may mà lúc đó địch lại xin giảng hoà, không thì chưa biết làm thế nào"(*).

Hơn 300 năm sau, vào mùa xuân năm 1428, thay lời Bình Ðịnh Vương Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết "Bình Ngô đại cáo" để tuyên bố với toàn dân kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh, giành lại độc lập cho Ðại Việt.

Sau khi quân ta đại thắng, tiêu diệt và làm tan rã 150.000 viện binh của giặc Minh, tướng giặc Vương Thông buộc phải giảng hoà, chấp nhận rút quân về nước. Cuộc kháng chiến thần thánh của Nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, chấm dứt 20 năm thảm khốc dưới ách đô hộ của giặc Minh, mở ra kỷ nguyên hoà bình lâu dài cho dân tộc.

"Bình Ngô đại cáo" được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai, sau "thơ thần", xứng đáng là áng "thiên cổ hùng văn" trong lịch sử văn chương nước nhà. Toàn bộ nội dung "Bình Ngô đại cáo" được triển khai trên cơ sở tư tưởng nhân nghĩa và chân lý về chủ quyền độc lập của nước Ðại Việt.

Nguyễn Trãi mở đầu bài cáo bằng đạo lý nhân nghĩa được xây dựng trên nền tảng là tư tưởng thân dân: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Theo ông, yên dân trước hết là phải trừ bạo để cho dân được sống yên lành, hạnh phúc trong đất nước độc lập, hoà bình.

Năm 1945, sau 517 năm, tính từ bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam - "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi, chiều ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Ðình - Hà Nội, Bác Hồ trịnh trọng công bố trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới bản Tuyên ngôn Ðộc lập bất hủ.

Tranh: LÝ KIỀU LOAN

Bản Tuyên ngôn Ðộc lập của Bác đề cập đến giá trị nhân văn cao cả được Bác tiếp thu từ Tuyên ngôn Ðộc lập của nước Pháp và nước Mỹ, điều mà toàn nhân loại sẽ mãi mãi theo đuổi. Ðó là con người phải được sống, được tự do, được hạnh phúc: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc...".

Quan niệm cũ trước đây là tạo hoá sinh ra muôn loài, trong đó con người là chúa tể. Ý này, nay có thể diễn tả khác đi cho phù hợp với trình độ khoa học hiện tại. Nhưng quan niệm mới nhất, cách mạng nhất là mọi người được tạo hoá ban cho như nhau những quyền tất yếu, không thể phủ nhận, không thể xâm phạm, không thể chuyển nhượng!

Ðã là quyền tất yếu, không thể phủ nhận, không thể xâm phạm, không thể chuyển nhượng thì không cần bàn cãi, không ai được phép làm người khác hiểu sai và không ai được phép lấy bất cứ tư cách gì để ban phát hay tước đoạt quyền vốn có của người khác. Như vậy, bất cứ thế lực nào, từ đâu, nếu vi phạm các quyền đương nhiên nói trên, đều bị coi là phi nghĩa, là thù địch.

Cùng với ngày 2/9/1945, bản Tuyên ngôn Ðộc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trước quốc dân đồng bào là mốc son chói lọi trên con đường dài đấu tranh dựng nước và giữ nước suốt mấy ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Cộng đồng các dân tộc Việt Nam luôn luôn đoàn kết, đồng tâm nhất trí, khẳng định với tư cách là quốc gia, dân tộc với lòng tự tôn, tự hào dân tộc chính đáng. Lời tuyên bố độc lập đó trở thành giá trị tinh thần, làm nên sức mạnh truyền thống của các thế hệ người Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai./,

Trần Lượng


(*) Theo Bách khoa toàn thư mở, viết về Lý Thường Kiệt.

 

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 2: Tìm hài cốt liệt sĩ nơi xứ người

Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ được Đảng, Nhà nước, Quân đội và thân nhân liệt sĩ được tăng cường, bất kể thời tiết, địa hình trắc trở. Dẫu lắm vất vả, gian truân nhưng là hành trình tri ân về tình đồng đội, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về

LTS: Vào ngày 17/7/2024, Bộ Công an ban hành Kế hoạch số 356/KH-BCA-C06 về việc triển khai thu nhận mẫu ADN cho thân nhân của liệt sĩ chưa xác nhận được danh tính trên toàn quốc. Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà là Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin, đã chỉ đạo một cách sát sao đối với công an của các tỉnh, thành phố. Hoạt động ý nghĩa, nhân văn này nhằm đưa hài cốt các anh hùng liệt sĩ về đất mẹ an táng với tên họ và thông tin đầy đủ nhất, thể hiện sự tri ân mà thế hệ hôm nay đối với thế hệ đi trước.

Những chi bộ đảng đầu tiên ở Cà Mau

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3/2/1930) dưới sự sáng lập và rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam với con đường kiên định: Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. 

Trung đoàn Đặc công Đ10 kỷ niệm 80 năm thành lập

Ngày 9/8, Trung đoàn Đặc công Đ10 Anh hùng long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập, khẳng định truyền thống vẻ vang và tiếp nối ngọn lửa nhiệt huyết cách mạng cho thế hệ sau.

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.