Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).
- Sức ảnh hưởng to lớn của Bản Tuyên ngôn độc lập với Hiến pháp nước ta
- Quyền con người trong Tuyên ngôn Độc lập và các đạo luật
- Giá trị lịch sử, ý nghĩa thời đại của bản Tuyên ngôn Độc lập
Bước vào thế kỷ XXI, 195 quốc gia trên thế giới đang hoà chung với dòng chảy lịch sử nhân loại. Các quốc gia, dân tộc dù lớn hay nhỏ, đều là bộ phận không thể tách rời của lịch sử thế giới. Song lịch sử, truyền thống, bản sắc mỗi quốc gia, dân tộc không thể hoà tan trong thế giới muôn màu.
Theo GS-NGND Nguyễn Ngọc Lanh, sớm nhất trong số 75 bản tuyên ngôn độc lập trên thế giới là bản của Scotland, khi nước này thoát khỏi sự thống trị của Anh vào năm 1320.
Song, theo tôi nghĩ, bài thơ "Nam quốc sơn hà" cần được ghi nhận là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên trên thế giới, vì nó xuất hiện vào năm 1077, khi nước ta đánh tan quân xâm lược nhà Tống, trước bản tuyên ngôn độc lập của Scotland 243 năm.
Lịch sử và dân gian đều ghi nhận, với lời thơ đanh thép, "Nam quốc sơn hà", chính thức tuyên bố với phong kiến phương Bắc: Nam quốc là nước độc lập, ngang hàng với quốc gia phong kiến phương Bắc. Nếu xâm phạm bờ cõi nước Nam, giặc Bắc sẽ thua tan tành.
Sử sách ghi rằng, năm 1076, nhà Tống xua 100.000 quân, 10.000 ngựa và 200.000 dân phu tiến đánh Ðại Việt. Chính trong trận này, tại phòng tuyến sông Như Nguyệt, khi quân Tống sa vào trận địa của Lý Thường Kiệt, bị cắt hoàn toàn chi viện. Lương thảo thiếu thốn, quân Tống mỏi mệt, ốm yếu... thêm vào đó, quân Ðại Việt liên tục tập kích, khiến quan quân nhà Tống hãi hùng đến tột cùng. Ðêm đêm, Lý Thường Kiệt cho người tâm phúc ngâm bài thơ từ đền thờ Trương Hống, Trương Hát. Lời thơ trầm bổng, uy lực như "thơ thần"; được phát ra từ hồn thiêng sông núi, khiến quân Tống càng kinh hồn, bạt vía: "Sông núi nước Nam, vua Nam ở/ Rành rành định phận tại sách trời/ Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm/ Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời".
Biết được quân Tống đã ở vào thế khốn cùng, để tránh hoạ binh đao khổ dân hai nước, Lý Thường Kiệt sai người đi nghị hoà. Chỉ huy quân Tống là Quách Quỳ như người chết đuối vớ được cọc, vội vã chấp nhận giảng hoà, rút tàn quân về nước vào tháng 3/1077 mà còn tim đập chân run, quỳ xuống tâu với vua Tống: "Cũng may mà lúc đó địch lại xin giảng hoà, không thì chưa biết làm thế nào"(*).
Hơn 300 năm sau, vào mùa xuân năm 1428, thay lời Bình Ðịnh Vương Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết "Bình Ngô đại cáo" để tuyên bố với toàn dân kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh, giành lại độc lập cho Ðại Việt.
Sau khi quân ta đại thắng, tiêu diệt và làm tan rã 150.000 viện binh của giặc Minh, tướng giặc Vương Thông buộc phải giảng hoà, chấp nhận rút quân về nước. Cuộc kháng chiến thần thánh của Nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, chấm dứt 20 năm thảm khốc dưới ách đô hộ của giặc Minh, mở ra kỷ nguyên hoà bình lâu dài cho dân tộc.
"Bình Ngô đại cáo" được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai, sau "thơ thần", xứng đáng là áng "thiên cổ hùng văn" trong lịch sử văn chương nước nhà. Toàn bộ nội dung "Bình Ngô đại cáo" được triển khai trên cơ sở tư tưởng nhân nghĩa và chân lý về chủ quyền độc lập của nước Ðại Việt.
Nguyễn Trãi mở đầu bài cáo bằng đạo lý nhân nghĩa được xây dựng trên nền tảng là tư tưởng thân dân: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Theo ông, yên dân trước hết là phải trừ bạo để cho dân được sống yên lành, hạnh phúc trong đất nước độc lập, hoà bình.
Năm 1945, sau 517 năm, tính từ bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam - "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi, chiều ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Ðình - Hà Nội, Bác Hồ trịnh trọng công bố trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới bản Tuyên ngôn Ðộc lập bất hủ.
Tranh: LÝ KIỀU LOAN
Bản Tuyên ngôn Ðộc lập của Bác đề cập đến giá trị nhân văn cao cả được Bác tiếp thu từ Tuyên ngôn Ðộc lập của nước Pháp và nước Mỹ, điều mà toàn nhân loại sẽ mãi mãi theo đuổi. Ðó là con người phải được sống, được tự do, được hạnh phúc: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc...".
Quan niệm cũ trước đây là tạo hoá sinh ra muôn loài, trong đó con người là chúa tể. Ý này, nay có thể diễn tả khác đi cho phù hợp với trình độ khoa học hiện tại. Nhưng quan niệm mới nhất, cách mạng nhất là mọi người được tạo hoá ban cho như nhau những quyền tất yếu, không thể phủ nhận, không thể xâm phạm, không thể chuyển nhượng!
Ðã là quyền tất yếu, không thể phủ nhận, không thể xâm phạm, không thể chuyển nhượng thì không cần bàn cãi, không ai được phép làm người khác hiểu sai và không ai được phép lấy bất cứ tư cách gì để ban phát hay tước đoạt quyền vốn có của người khác. Như vậy, bất cứ thế lực nào, từ đâu, nếu vi phạm các quyền đương nhiên nói trên, đều bị coi là phi nghĩa, là thù địch.
Cùng với ngày 2/9/1945, bản Tuyên ngôn Ðộc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trước quốc dân đồng bào là mốc son chói lọi trên con đường dài đấu tranh dựng nước và giữ nước suốt mấy ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Cộng đồng các dân tộc Việt Nam luôn luôn đoàn kết, đồng tâm nhất trí, khẳng định với tư cách là quốc gia, dân tộc với lòng tự tôn, tự hào dân tộc chính đáng. Lời tuyên bố độc lập đó trở thành giá trị tinh thần, làm nên sức mạnh truyền thống của các thế hệ người Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai./,
Trần Lượng
(*) Theo Bách khoa toàn thư mở, viết về Lý Thường Kiệt.