Giữa năm 1967, tôi được địa phương chọn đưa đi học Trường Bổ túc văn hoá tu nghiệp sư phạm huyện Trần Văn Thời, đào tạo giáo viên cho cơ sở.
- Phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, xây dựng Hội CCB Hoà Bình vững mạnh
- Cựu chiến binh Đất Mũi tiên phong trong phong trào thi đua yêu nước
- Xây dựng Hội Cựu chiến binh xã Năm Căn vững mạnh toàn diện
Trường được xây cất trong khu vườn dừa đoạn bờ kênh Cơi Tư, khỏi ngã tư So Le ra kênh Dân Quân, thuộc Xã Trần Hợi, giáp ranh xã Khánh Bình. Anh Nguyễn Minh Gấm (Ba Gấm) và anh Ðào Minh Trí (Hai Trí), trong Ban Giám hiệu nhà trường, trực tiếp giảng dạy. Tôi không sao quên được ký ức buổi đầu xa nhà: sáng dậy sớm bước xuống chiếc xuồng be tám, hớp ngụm nước mương vườn, màu nước rừng U Minh đỏ ngầu như nước trà, đánh răng bằng kem Perlon thơm dìu dịu...
Trên địa bàn này, giặc thường đánh phá, ném bom, đổ quân. Khu vực trường tôi học, địa hình rậm rạp vườn dừa, vườn chuối, lau sậy bịt bùng. Nhiều nhà học viên nằm rải rác cùng nhà dân. Tôi với anh Ba Kháng ở chung nhà, anh là con bác Ba Chư, Trưởng ban Giáo dục Xã Trần Hợi, quê ở Vườn Giữa.
Vừa học, chúng tôi vừa tranh thủ tìm nơi thật kín đáo, dựa vào bờ vườn rậm, mỗi người đào một hầm bí mật, bảo đảm không ai biết chỗ của ai... Tôi chọn điểm đào hầm trên bờ đìa đất mới sau vườn, cặp mé ruộng, tuôn một số đất xuống nước và trổ thông ra đáy đìa, kiểu hang cá trê. Khi đắp nắp liền mặt bờ chuối dày bịt, tôi lại quên làm lỗ thông hơi.
Mấy ngày sau, trực thăng địch đổ quân xuống đê rừng kênh Kiểm Lâm, kéo ra ngã tư So Le. Chúng băng ruộng, cắt đường ra hướng trường chúng tôi, nổ súng chan chát và la hét inh ỏi. Tình hình lúc đó rất căng thẳng. Nhắm không êm, tôi nhảy xuống đìa và lặn vô hầm. Nước tới ngực, tối đen. Chỉ vài phút, tôi nghe hai lỗ tai kêu o o, đầu rần rần khó chịu... Tôi ráng sức lặn trở ra và bơi nhẹ qua mé bờ bên kia, rồi bẻ một cây sậy to bằng ngón chân cái. Tôi tiếp tục lặn vô hầm, dùng cây sậy khui 2-3 lỗ lên nắp hầm. Khi thấy lọt ánh sáng, tôi đưa mũi sát lên đó, thở từng hơi dài, nhưng vẫn không tài nào chịu nổi. Nghĩ rằng không thể chết ngộp trong hầm, tôi ráng sức bình sinh lặn trở ra. Khi nổi lên mặt nước, cơ thể quá mệt mỏi, tôi leo lên bờ, ngồi nép dưới lùm chuối nghỉ lấy sức. Lúc này không còn nghe thấy tiếng la hét của địch, chỉ vài tiếng súng lác đác xa hướng trường.
Một hồi sau, tôi trở vô. Qua khỏi mái vách lá bên hông nhà, tôi nhìn thấy anh Kháng đang ngồi tắm ở sàn nước. Nghe tiếng chân bước thùi thụi, anh ngó lại và chụp ngay cây bá đỏ - súng trường K44. Chợt nhận ra tôi, anh hét lên: "Mày hả? Chút xíu nữa thì...". Tôi biết anh “ém” ở gần đây, thấy tình hình êm nên vô nhà trước, nhưng vẫn ý thức cảnh giác lắng nghe tiếng động xung quanh.
Trận đổ quân đó, bọn địch từ đê rừng kéo ra ngã tư So Le, thẳng kênh Dân Quân, Tám Chánh, ra vàm Rạch Cui để lên tàu sắt cặp bờ sông Ông Ðốc, rồi rút về tiểu khu An Xuyên (Cà Mau).
Chúng tôi tiếp tục học ở ngôi trường đó một thời gian nữa, rồi thầy, trò cùng dời đến điểm trường trên bờ kênh Hậu Ðòn Dong, thuộc phần đất của gia đình bác Tư Vinh. Tôi ở nhờ nhà anh Tư Thành (con bác Tư), là đội viên du kích ấp, có khẩu súng trường Ðức... Vẫn phương châm cảnh giác cách mạng, chúng tôi được triển khai ngay việc đào hầm tránh phi pháo và hầm bí mật để đề phòng địch đánh phá, đổ quân. Các học viên tủa ra sau vườn, giữa các bờ vuông, đào công sự. Tôi với anh Kháng vác vá, xách mác ra bờ, đào chung cái hầm.
Vào một buổi trưa, chúng tôi đang ngồi học, bỗng có chiếc “đầm già” bay đến rè rè, quần tới đảo lui, khoanh vùng chỉ điểm cho pháo hạm đậu ngoài biển Tây bắn vào. Một trái pháo hiệu vút qua khỏi trường, bốc lên cụm khói trắng, rớt giữa hậu đất giáp đầu kênh Sáu Thước. Tiếp theo là loạt pháo bầy nổ đinh tai nhức óc, miểng pháo bay hu hú rợn người. Như con chim lạc đàn, tôi ém mình dưới bờ vuông ruộng lúa xanh tốt của đất dượng Bảy Tiểng, vừa tránh pháo vừa không cho gợn mặt nước để tránh con “đầm già”, nép cái đầu sát gốc bụi trâm bầu, chịu trận!
Tan trận pháo hạm, cả tuyến kênh Hậu Ðòn Dong trong xóm lẫn ngoài ruộng, chỗ nào cũng có những hố đạn pháo khoét sâu, bùn đất văng đầy trên thân cây bị gãy đổ. Thật may, bà con tại chỗ và học viên lớp tôi đều an toàn.
Giữa thời chiến gian khổ, ác liệt, các học viên ai nấy đều tích cực học tập. Mấy câu khẩu hiệu viết bằng si rô màu đỏ trên giấy trắng dán hai bên cây ở hông trường bằng vách lá, tôi còn thuộc một câu: “Giấu dốt là kẻ thù của thái độ học tập...”. Thuở ấy, anh Hai Trí (hiện sống tại phường Bạc Liêu) dạy môn Toán, việc học viên tiếp thu bài và thực hành thuộc bài, biết làm 4 phép toán: cộng, trừ, nhân, chia cũng là thoát dốt, khá lắm rồi. Anh Ba Gấm (đã qua đời năm 2013 ở Bạc Liêu) dạy môn Văn; một buổi lên lớp, anh đọc cho các học viên chúng tôi chép vào vở bài thơ “Mồ anh hoa nở” của Thanh Hải, giọng đọc của anh thật truyền cảm, diễn đạt rõ từng câu chữ, rất dễ nhớ...
Cuối khoá học năm ấy, anh Ba Gấm thay mặt Ban Giám hiệu nhà trường phát động căm thù Mỹ nguỵ; nói chuyện trước gần 40 học viên, anh xúc động nghẹn ngào... Hưởng ứng lời kêu gọi, trong lớp giáo viên tương lai này có nhiều người tình nguyện lên đường tòng quân. Riêng tôi được các anh tham khảo nguyện vọng và anh Hai Trí đã trực tiếp đến gia đình, xin ý kiến ba má cho tôi thoát ly theo các anh làm nhiệm vụ ấn loát tại Văn phòng Ban Tuyên huấn huyện...
Ông Nguyễn Hoàng Nam (giữa), nay có tên Tô Hý (Tư Hý) ở kênh Chồn Gầm, xã Khánh Bình, tỉnh Cà Mau.
57 năm sau, ngày 25/4/2024, tôi về kênh Chồn Gầm, tìm gặp anh Tô Hý (mật danh Tư Hý), bạn học chung mái trường này. Anh tên thật là Nguyễn Hoàng Nam (sinh năm 1948), lớn hơn tôi 2 tuổi. Nhắc lại trận pháo hạm, anh nói tôi mới biết: Năm ấy, có 3 học viên được trang bị súng trường, lập thành tổ chiến đấu, khi cần thì chống càn, đánh địch và bắn máy bay. Buổi trưa hôm đó, con “đầm già” từ Cà Mau bay vô tới bầu trời kênh Hậu Ðòn Dong, bị 3 tay súng trường gồm anh Ba Kháng, anh Hoàng Nam và một anh nữa tập trung bắn lên chiếc máy bay trinh sát L-19 này...
Số học viên chung trường, tôi chỉ nhớ vài người, may nhờ gặp lại anh Tư Hý, cho tôi biết thêm hơn 10 người nữa, như các chị: Tám Yển, Năm Thêm, Út Ðiểu; các anh: Tư Tấn, anh Thái (Thái Móm, mật danh Chín Hòn) ở xã Ðá Bạc; anh Út Tải (đã qua đời) ở xã Khánh An; các chị: Ngọc Ánh, Mười Thật, Hồng Liễu, Hồng Lộc, Tư Sạn, Sáu Vinh ở xã Khánh Bình...
Gần 60 năm trôi qua, tôi vẫn nhớ như in những kỷ niệm dưới mái trường Bổ túc văn hoá tu nghiệp sư phạm huyện Trần Văn Thời khoá 3 năm 1967 thời kháng chiến, vẫn mãi ấm áp tình thầy trò và đồng chí, anh em...
Cái Nước, tháng 11/2025
Nguyễn Minh

Truyền hình







Xem thêm bình luận