ĐT: 0939.923988
Thứ hai, 25-8-25 18:35:40
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Người Trưởng Tiểu ban Giáo dục huyện Châu Thành ngày ấy

Báo Cà Mau Mới học xong lớp đệ thất ngoài thành, má ra kêu chị (Trần Mỹ Ánh) về không học nữa. Chị hỏi tại sao? Má nói các chú bảo học lâu sẽ bị nhiễm tư tưởng của giặc. Chị nói, không hiểu sao hồi nhỏ chị ngoan ngoãn theo má đi về. Ngày 2/9/1961 là ngày đầu tiên chị tham gia làm cô giáo dạy bổ túc văn hoá ở làng quê, sau đó được đi tập huấn sư phạm xã và về dạy phổ thông ở ấp.

Mới học xong lớp đệ thất ngoài thành, má ra kêu chị (Trần Mỹ Ánh) về không học nữa. Chị hỏi tại sao? Má nói các chú bảo học lâu sẽ bị nhiễm tư tưởng của giặc. Chị nói, không hiểu sao hồi nhỏ chị ngoan ngoãn theo má đi về. Ngày 2/9/1961 là ngày đầu tiên chị tham gia làm cô giáo dạy bổ túc văn hoá ở làng quê, sau đó được đi tập huấn sư phạm xã và về dạy phổ thông ở ấp.

Năm 1962, chị đi học sư phạm huyện rồi sư phạm tỉnh. Mãn khoá, chị về dạy lớp 3, 4 trường xã Tân Lợi (Hồ Thị Kỷ bây giờ). Được vài khoá, lúc này giáo dục phát triển, khắp nơi đòi mở lớp dạy cho con em Nhân dân, xã điều động chị sang làm công tác quản lý giáo dục của xã. Năm 1964, chị sang làm Phó Trưởng ban, rồi Trưởng Ban Giáo dục xã Tân Lợi, vừa làm cán bộ quản lý giáo dục xã, vừa cùng chị Sáu Thắm dạy lớp 4 trường xã. Giặc đánh phá, đốt trường, nhiều học sinh nghỉ học tham gia kháng chiến: một số đi bộ đội, số vào các cơ quan, Hồ Thị Kỷ là học sinh lớp 3 vào biệt động Cà Mau.

Chị Trần Mỹ Ánh (áo trắng), Trưởng Tiểu ban Giáo dục huyện Châu Thành (ảnh chụp năm 1975). Ảnh tư liệu

Sau Tết Mậu Thân 1968, giặc đánh phá ác liệt, vùng giải phóng bị thu hẹp, đồn bót giặc giăng khắp nơi, học sinh không được đến trường, đây là thời kỳ đen tối nhất của giáo dục cách mạng. Những năm này, chị tạm rời tay bút, trực tiếp cầm súng chiến đấu. Năm 1972-1973, chị làm Xã đội phó xã Tân Lợi, trực tiếp chỉ huy đánh giặc. Cũng trong thời gian này, trong một trận đánh, chị bị thương. Dưỡng thương 3 tháng, khi vết thương lành cũng là lúc xã Tân Lợi sáp nhập về huyện Châu Thành. Chị công tác ở phụ nữ huyện, sau đó về Ban Tuyên huấn huyện và về sau được phân công phụ trách Trưởng Tiểu ban Giáo dục huyện Châu Thành (từ tháng 6/1973).

Sau Hiệp định Paris, tình hình bớt căng thẳng, vùng giải phóng mở rộng hơn trước, Nhân dân yêu cầu mở trường lớp. Châu Thành phải mở liên tục các lớp sư phạm ngắn hạn đào tạo giáo viên cấp 1. Thuận lợi của Châu Thành là học sinh học văn hoá ngoài thị xã Cà Mau, ta vận động vào chiến khu công tác, cho đi tập huấn chuyên môn vài tháng rồi về làm thầy cô giáo được ngay. Huyện còn mở tại kinh Hai Hạt lớp 3 và 4 cho con em cán bộ huyện Châu Thành (đó là lớp đào tạo đội ngũ cán bộ sau này).

Lớp sư phạm huyện mở tại Rạch Dừa - An Xuyên sắp kết thúc (lúc này cơ quan Tuyên huấn - Giáo dục Châu Thành ở Cà Mau Nam), để kịp dự ngày bế giảng, chị và chị Hồng Ánh (Phó Tiểu ban Giáo dục) phải đi bằng con đường hợp pháp. Từ Gành Hào đi đò ra Tắc Vân rồi về nơi lớp sư phạm ở Rạch Dừa. Nhưng trên đường đi, chị nhìn thấy trên bờ bọn cảnh sát nguỵ mặc đồ vàng, chúng kêu tàu ghé lại, chị nói nhỏ với Hồng Ánh là không nhận quen biết nhau.

Chị xách một cái giỏ đựng quần áo (tài liệu đã gởi các anh đi đường giao liên), chúng xét tàu, xét hành khách, xét đến chị, chúng bảo: “Con nhỏ này móc đồ ra…”. Chị nói ngay: “Các ông muốn xét thì tự làm lấy”, chị cố ra vẻ làm dữ lại vì chị có căn cước hẳn hoi và để chúng không nghi ngờ. Chúng hùng hổ không chịu, chị liền cầm đít giỏ trút xuống làm quần áo đổ ra tung toé, cả quyển sách dưới giỏ cũng rớt ra. Chị thấy chúng mừng rỡ như tìm được của quý, chúng hét lên: “Tài liệu gì đây?”. Chị trả lời: “Các ông xem đi rồi biết”. Chị liếc thấy đó là quyển tiểu thuyết của Hồng Ánh mang theo mà chị không hay biết, chị thở phào nhẹ nhõm. Chúng bẽn lẽn bỏ đi.

Thấy không ổn, chị ra hiệu cho Hồng Ánh lên bờ đi xe lam về Tắc Vân. Lên xe rồi nhưng chưa đủ chỗ nên bác tài nổ máy đợi khách, thấy thế chị nói: “Bác tài ơi chạy đi, còn mấy chỗ ta rước dọc đường”. Xe mới chạy được vài chục mét, nghe tiếng còi cảnh sát thổi, xe dừng lại, chúng lên xe xét giấy. Chị có giấy chúng bỏ qua, đến Hồng Ánh không có  giấy, Hồng Ánh chống chế: “Bà ngoại tôi bị bệnh nặng, gấp quá tôi quên cả giấy tờ”. Tên Hoàng Phi Hổ bảo chiếc xe vua chở Hồng Ánh đem về đồn. Chị xin quá giang về Tắc Vân, tên Hoàng Phi Hổ nói: “Mầy đi thì phải trả tiền”.

Trên xe, Hồng Ánh cho chị biết địa chỉ cậu Tám Đổng ở Tắc Vân để báo tin. Xe tới Tắc Vân, chị xuống xe đi vô chợ nhà lồng hỏi cô gái bán trái cây, may sao gặp ngay con cậu Tám dẫn chị vô nhà. Báo tin xong (lúc 8 giờ), chị từ giã ra đi về nhà cơ sở. Bất ngờ quá, dì Ba lúng túng sợ giặc biết, chị trấn tĩnh dì ngay: “Dì bình tĩnh, đừng quýnh dễ bị lộ…”. Lâu ngày không gặp, dì Ba mừng hỏi đủ chuyện, dọn cơm cho chị ăn, dì bảo không được ở lâu, chúng đánh hơi sẽ lộ. Chị trở lại chợ Tắc Vân lúc 2 giờ chiều cùng ngày, biết được gia đình cậu Tám lo lót đồn thả Hồng Ánh ra, đang ở nhà dưới dọn mâm chén bát đãi cho bọn lính vừa tan. Chúng quản thúc Hồng Ánh tại gia để ngày sau đem căn cước đến chuộc. Chị bàn với Hồng Ánh chỉ có con đường “chuồn” là thượng sách.

Kế  hoạch được thực hiện: cậu Tám bố trí cho người con trai đưa chị và Hồng Ánh xuống tàu. Tàu vừa ra khỏi bến không xa, nghe tiếng còi biết là chúng xét. Chị liền nói với chủ tàu: “Chú có chỗ cho hai đứa tôi lánh mặt, do bà ngoại bệnh gấp quá tôi không mang căn cước theo”. Chủ tàu cằn nhằn: “Có bao nhiêu cũng quên”. Nhưng chủ tàu tốt bụng, cho hai chị vô trong tủ phía sau tàu lấy đồ phủ kín lại (như tủ để chứa đồ), chừa đủ chỗ để thở. Chị nghe bọn lính xét hỏi lung tung… Một hồi lâu tàu nổ máy chạy đi, chủ tàu vào kêu cho hay ổn rồi. Chị càng hiểu không có tường thành nào vững chắc hơn “luỹ thép lòng dân”.

Chị về cơ quan không lâu thì được đi học lớp cán bộ quản lý giáo dục Khu Tây Nam Bộ. Chị cùng Trường Hận khăn gói lên đường, theo đường giao liên vượt lộ qua đồn, qua sông Bảy Háp, sông Ông Đốc vào ven rừng U Minh. Chị được học ngay điểm trường của khoá trước để lại ở đê Cơi 5.

Về đây có gần 30 học viên khắp các tỉnh, lớp khai giảng ngày 9/11/1974, có mặt chú Mười On, chú Hai Hành và các thầy cô giáo… Trường do chú Sáu Thành làm Hiệu trưởng, chú Phong Ba làm Hiệu phó. Không có tài liệu, học viên vừa nghe thầy giảng, vừa ghi chép cẩn thận để làm tài liệu sử dụng khi về địa phương. Tập ghi chép chị còn lưu giữ, tuy mực đã phai màu, giấy đã vàng hoe theo thời gian hơn 40 năm.  

Rừng U Minh nước đỏ, nhiều cá, nhiều rau rừng, đêm xuống tiếng cá lóc đớp mồi, tiếng các loại cá “ục” nghe như nhiều tiếng vỗ tay từ đồng xa vọng trong đêm thanh vắng… Mỗi tổ trực nhật một ngày, chỉ một tay lưới giăng quanh nhà dưới các con kinh, sáng ra cũng gần chục ký cá đủ ăn cho cả lớp. Rau thì hái quanh các liếp hoặc trồng cải để phục vụ lâu dài. Đất màu mỡ, hễ vãi hạt xuống, tưới nước, vun phân không bao lâu cây lên xanh tươi mơn mởn.

Đầu năm 1975, tin chiến thắng từ khắp các chiến trường bay về. Những tin tức thời sự được thầy cập nhật thông báo cho học viên. Cả lớp học với niềm hân hoan của người chiến thắng, ra sức tiếp thu kiến thức để chuẩn bị cho tình hình mới. Ngày 27/1/1975, lớp bế giảng, chị và các anh chị em học viên lưu luyến chia tay trở về địa phương.

Về đến quê hương, chị háo hức hoà vào khí thế tấn công của quân và dân Châu Thành. Ngày 30/4/1975, Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Chị cùng đoàn quân giải phóng về tiếp quản Tắc Vân. Chị được phân công trong ban tiếp quản. Đang lúc ngồi ghi tên những người trong bộ máy chính quyền địch ra đăng ký, chị gặp tên sĩ quan cảnh sát Hoàng Phi Hổ ra đăng ký sau 10 ngày lẩn trốn. Nhìn hắn không còn dáng vẻ dữ dằn hung bạo ngày nào mà giờ đây sợ sệt, giọng run run khi chị nhận ra chân tướng của hắn. Chị nói rõ sự khoan hồng của cách mạng, khuyên hắn thành thật và trở về cuộc đời lương thiện…

Suốt thời gian dài gắn bó với giáo dục, chị tự hào được làm “nhà giáo kháng chiến”, biết lấy những kiến thức tiếp thu được ở trường đem trải nghiệm vào thực tế ở địa phương, góp một phần không nhỏ của mình vào sự nghiệp chung của nền “giáo dục giải phóng thời kỳ chống Mỹ cứu nước ở miền Nam”./.

Huỳnh Thị Mỹ Huê

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 2: Tìm hài cốt liệt sĩ nơi xứ người

Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ được Đảng, Nhà nước, Quân đội và thân nhân liệt sĩ được tăng cường, bất kể thời tiết, địa hình trắc trở. Dẫu lắm vất vả, gian truân nhưng là hành trình tri ân về tình đồng đội, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về

LTS: Vào ngày 17/7/2024, Bộ Công an ban hành Kế hoạch số 356/KH-BCA-C06 về việc triển khai thu nhận mẫu ADN cho thân nhân của liệt sĩ chưa xác nhận được danh tính trên toàn quốc. Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà là Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin, đã chỉ đạo một cách sát sao đối với công an của các tỉnh, thành phố. Hoạt động ý nghĩa, nhân văn này nhằm đưa hài cốt các anh hùng liệt sĩ về đất mẹ an táng với tên họ và thông tin đầy đủ nhất, thể hiện sự tri ân mà thế hệ hôm nay đối với thế hệ đi trước.

Những chi bộ đảng đầu tiên ở Cà Mau

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3/2/1930) dưới sự sáng lập và rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam với con đường kiên định: Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. 

Trung đoàn Đặc công Đ10 kỷ niệm 80 năm thành lập

Ngày 9/8, Trung đoàn Đặc công Đ10 Anh hùng long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập, khẳng định truyền thống vẻ vang và tiếp nối ngọn lửa nhiệt huyết cách mạng cho thế hệ sau.

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.