ĐT: 0939.923988
Thứ ba, 1-7-25 08:55:53
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nhớ ngày tiếp quản Cà Mau

Báo Cà Mau Ngày 30/4, ngày lịch sử trọng đại của dân tộc, ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam khỏi ách thống trị của bọn xâm lược và bè lũ tay sai, ngày mà triệu triệu người Việt Nam vỡ oà hạnh phúc.

Ông Trần Công Bình cùng tấm ảnh thời trai trẻ.

Nhớ lại những ngày lịch sử ấy, ông Trần Công Bình (Út Bình), Ðại tá quân đội, nguyên Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự huyện Thới Bình, lúc đó là Xã đội trưởng xã Lương Thế Trân, vừa được phân công làm Chính trị viên Ðại đội 4, thuộc Tiểu đoàn 9 huyện Cái Nước mới được thành lập, để chuẩn bị tiếp quản huyện Cái Nước và tỉnh Cà Mau, kể:

... Ngày 28/11/1974 âm lịch, xã Lương Thế Trân được giải phóng, lúc đó Út Bình làm Xã đội trưởng Lương Thế Trân. Theo chỉ đạo của cấp trên, để chuẩn bị tiếp thu huyện Cái Nước, tại xã Tân Hưng, huyện đã huy động lực lượng du kích của các xã trong huyện thành lập Tiểu đoàn 9, do đồng chí Sáu Dũng làm Tiểu đoàn trưởng, huấn luyện tại Xẻo Trê chuẩn bị cho giải phóng huyện và tiếp thu Nam Cà Mau.

Du kích xã Lương Thế Trân lúc đó do Út Bình làm Xã đội trưởng được biên chế thành Ðại đội 4 của Tiểu đoàn 9, do đồng chí Hai Tiết (Nguyễn Thành Tiết, Ðại tá, nguyên Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự huyện Cái Nước) làm Ðại đội trưởng, Trần Công Bình làm Chính trị viên đại đội, nhiệm vụ của Ðại đội 4 là kiểm soát từ Hãng nước mắm Vĩnh Hương (ngang Lộ 16 lúc đó), tới Thạnh Ðiền (hiện nay là Ấp Thạnh Điền, xã Lý Văn Lâm).

Ðêm 29/4, Ðại đội 4 được phân công trực tiếp tiếp quản từ cầu Phán Tề đến Bến Hải quân của nguỵ, trong đó có Trung tâm chiêu hồi. Nhiệm vụ tiếp quản do Ban Chỉ huy Quân sự tỉnh (nay là Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh) điều hành. Ðúng 3 giờ sáng 30/4/1975 phải đưa quân bám sát Bến Hải quân và Trung tâm chiêu hồi. Hoả lực của đại đội lúc đó được trên trang bị gồm 1 khẩu cối 82, 1 khẩu đại liên 30, vũ khí của đại đội chỉ có súng tiểu liên và vài khẩu M79. Tương quan lực lượng lúc đó, quân số ta chỉ có 40 người, còn phía địch có trên 300 tên, được trang bị vũ khí hiện đại đầy đủ, có cả tàu chiến, trọng pháo.

Khi đại đội đã đưa quân vào đúng vị trí, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ thì có lệnh điều động, rút quân ra khỏi vị trí vì bọn nguỵ ở Ðầm Dơi sẽ rút quân về hướng cầu Phán Tề. Theo lệnh, đại đội rút quân về kênh Rạch Rập. Ðúng 5 giờ 30 phút sáng 30/4, xác định bọn nguỵ quân ở Ðầm Dơi chạy về hướng Hoà Thành, Tỉnh đội ra lệnh điều quân trở lại vị trí cũ. Lúc đó, trời đã rạng sáng, ta đưa quân vào vị trí gần như công khai, nhưng bọn nguỵ vẫn ở yên vị trí trong doanh trại, không phản ứng gì. Ðến khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, bọn nguỵ vẫn ở yên trong doanh trại, thỉnh thoảng có vài tên lính đi qua cầu Phán Tề để đi chợ. Ðại đội đưa 3 chiến sĩ ra canh ở cầu Phán Tề, đón bắt được 1 tên lính nguỵ, kêu chúng đem thư về cho bọn chỉ huy đề nghị cử sĩ quan ra đón quân giải phóng và tổ chức bàn giao.

Sáng sớm ngày 1/5/1975, quân ta tiến chiếm các cơ sở của địch và hoàn toàn làm chủ tỉnh lỵ An Xuyên (Cà Mau). Ảnh tư liệu

Sáng sớm ngày 1/5/1975, quân ta tiến chiếm các cơ sở của địch và hoàn toàn làm chủ tỉnh lỵ An Xuyên (Cà Mau). Ảnh tư liệu

Bọn nguỵ đã cử Ðại uý Bình, Giang đoàn trưởng Giang đoàn hải quân; Ðại uý Út phụ trách binh chủng bộ binh hải quân, liên quan Trung tâm chiêu hồi ra đón và mời bộ đội giải phóng vào để nhận bàn giao khu vực và vũ khí.

Lúc đó, Út Bình là Chính trị viên đại đội nên được phân công cùng 1 bảo vệ và 3 chiến sĩ vào nhận bàn giao. Ông phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng chiến sĩ, lúc vào sở chỉ huy của nguỵ, Thiếu tá Hưng ra đón (Thiếu tá Hưng là con Hào Xựng, ở khu vực Bình Hưng, Cái Ðôi Vàm, là thành phần ác ôn). Chúng chuẩn bị cà phê, nước giải khát mời đoàn, nhưng đoàn từ chối và yêu cầu bàn giao. Thiếu tá Hưng kêu Ðại uý Huỳnh lấy chìa khoá và dẫn chiến sĩ bàn giao các kho. Út Bình yêu cầu sĩ quan nguỵ ở lại, nhưng khi nhận bàn giao xong các kho trở lại thì Thiếu tá Hưng đã bỏ trốn. Sau khi làm công tác trấn an tư tưởng của nguỵ quân, ông cho tất cả lính nguỵ về nhà, chờ thông báo của địa phương sẽ ra trình diện. Quân giải phóng thì ở nhà dân và ở tạm các mái che.

Ông nhớ lại, chiều 30/4, nhiều người dân ở Cái Nước bơi xuồng ba lá ra Cà Mau để nhìn ngắm chợ Cà Mau, nơi mà chỉ mấy ngày trước chẳng ai dám nghĩ mình sẽ được đặt chân tới đây. Không chỉ người dân mà các chiến sĩ giải phóng quân hầu hết cũng bỡ ngỡ, vì đây là lần đầu tiên ra chợ Cà Mau, tất cả đều lạ lẫm. Nhiều lão nông ra tìm con cái mình là bộ đội giải phóng ra tiếp quản Cà Mau, có quen với mấy anh em trong đại đội nên đến rủ anh em ra quán uống cà phê, các chiến sĩ từ chối và nói rằng mấy chú tiền đâu mà đãi bộ đội, nhiều chú vui vẻ cho biết, đã kêu hàng xáo bán lúa lấy tiền ra Cà Mau chơi cho biết. Vào quán kêu cà phê, chủ quán đem cà phê phin ra, hầu hết đều không biết uống thế nào, cứ ngồi nhìn, có người nếm thử rồi lắc đầu, lè lưỡi, rồi trả tiền ra về...

Ấy vậy mà đã 50 năm, từ chàng trai mới 30 tuổi, nay đã ở tuổi U80, nhớ lại những kỷ niệm xưa, ông không khỏi bùi ngùi, nhớ đồng đội, thương những người dân một đời chịu thương chịu khó, sống dưới đạn bom, tới ly cà phê cũng chưa từng uống... Thế đấy, bây giờ thì nông dân lướt điện thoại, sử dụng công nghệ 4.0, có ai còn nhớ những ngày cực khổ, cận kề cái chết; bao nhiêu người nhớ những đồng đội đã ngã xuống vì độc lập, tự do cho quê hương, đất nước. Cầm bức ảnh ngày xưa, ông âm thầm rơi nước mắt, những đồng đội trong ảnh đã hy sinh gần hết...

 

Huỳnh Châu

(ghi theo lời kể của ông Trần Công Bình)

 

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Ðài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến - Tiếng nói của khát vọng độc lập, tự do

Đài Nam Bộ Kháng chiến ra đời những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947-1954). Có lúc đóng ở Ðồng Tháp Mười (Long An); có giai đoạn ở Thới Bình, Ðầm Dơi, Ngọc Hiển, U Minh (Cà Mau), hay Kiên Giang, Bạc Liêu; có thời điểm đài đổi tên thành Ðài Tiếng nói Nam Bộ. Tuy vậy, dù ở bất cứ nơi đâu, tên gọi khác nhau, nhưng các thế hệ cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên của đài không ai được đào tạo bài bản về phát thanh nhưng đã làm nên một đài phát thanh vang danh, lừng lẫy; tạo dấu ấn đặc biệt trong lịch sử báo chí Việt Nam nói chung và ngành phát thanh nói riêng. Ðó là tiếng nói của Uỷ ban Nam Bộ Kháng chiến; cầu nối của Ðảng, Bác Hồ với đồng bào Nam Bộ; là ước mong, khát vọng của đồng bào nơi đây về một Việt Nam độc lập, tự do.

Những khó khăn, thách thức của người làm báo trong thời kháng chiến

Mùa khô năm 1964, lần thứ hai tôi theo mẹ từ Bến Tre vào Cà Mau thăm ba tôi đang làm ruộng và dạy học tư ở Kinh Hãng Giữa... Ba tôi bất hợp pháp kể từ năm bác ruột thứ tư của tôi - 1 trong 12 người Việt Minh làng Ba Mỹ bị giặc Pháp bắt chặt đầu ở bót Nhà Việc Mỹ Chánh năm 1946... Lần này, ba tôi không cho tôi trở về quê nữa, vì về ngoải mai mốt lớn lên tụi giặc nó bắt lính... Thế là tôi phải ở lại trong này, thành công dân Cà Mau từ đó.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.