Thứ tư, 17-9-25 01:17:19
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nhớ ngày tiếp quản Cà Mau

Báo Cà Mau Ngày 30/4, ngày lịch sử trọng đại của dân tộc, ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam khỏi ách thống trị của bọn xâm lược và bè lũ tay sai, ngày mà triệu triệu người Việt Nam vỡ oà hạnh phúc.

Ông Trần Công Bình cùng tấm ảnh thời trai trẻ.

Nhớ lại những ngày lịch sử ấy, ông Trần Công Bình (Út Bình), Ðại tá quân đội, nguyên Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự huyện Thới Bình, lúc đó là Xã đội trưởng xã Lương Thế Trân, vừa được phân công làm Chính trị viên Ðại đội 4, thuộc Tiểu đoàn 9 huyện Cái Nước mới được thành lập, để chuẩn bị tiếp quản huyện Cái Nước và tỉnh Cà Mau, kể:

... Ngày 28/11/1974 âm lịch, xã Lương Thế Trân được giải phóng, lúc đó Út Bình làm Xã đội trưởng Lương Thế Trân. Theo chỉ đạo của cấp trên, để chuẩn bị tiếp thu huyện Cái Nước, tại xã Tân Hưng, huyện đã huy động lực lượng du kích của các xã trong huyện thành lập Tiểu đoàn 9, do đồng chí Sáu Dũng làm Tiểu đoàn trưởng, huấn luyện tại Xẻo Trê chuẩn bị cho giải phóng huyện và tiếp thu Nam Cà Mau.

Du kích xã Lương Thế Trân lúc đó do Út Bình làm Xã đội trưởng được biên chế thành Ðại đội 4 của Tiểu đoàn 9, do đồng chí Hai Tiết (Nguyễn Thành Tiết, Ðại tá, nguyên Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự huyện Cái Nước) làm Ðại đội trưởng, Trần Công Bình làm Chính trị viên đại đội, nhiệm vụ của Ðại đội 4 là kiểm soát từ Hãng nước mắm Vĩnh Hương (ngang Lộ 16 lúc đó), tới Thạnh Ðiền (hiện nay là Ấp Thạnh Điền, xã Lý Văn Lâm).

Ðêm 29/4, Ðại đội 4 được phân công trực tiếp tiếp quản từ cầu Phán Tề đến Bến Hải quân của nguỵ, trong đó có Trung tâm chiêu hồi. Nhiệm vụ tiếp quản do Ban Chỉ huy Quân sự tỉnh (nay là Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh) điều hành. Ðúng 3 giờ sáng 30/4/1975 phải đưa quân bám sát Bến Hải quân và Trung tâm chiêu hồi. Hoả lực của đại đội lúc đó được trên trang bị gồm 1 khẩu cối 82, 1 khẩu đại liên 30, vũ khí của đại đội chỉ có súng tiểu liên và vài khẩu M79. Tương quan lực lượng lúc đó, quân số ta chỉ có 40 người, còn phía địch có trên 300 tên, được trang bị vũ khí hiện đại đầy đủ, có cả tàu chiến, trọng pháo.

Khi đại đội đã đưa quân vào đúng vị trí, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ thì có lệnh điều động, rút quân ra khỏi vị trí vì bọn nguỵ ở Ðầm Dơi sẽ rút quân về hướng cầu Phán Tề. Theo lệnh, đại đội rút quân về kênh Rạch Rập. Ðúng 5 giờ 30 phút sáng 30/4, xác định bọn nguỵ quân ở Ðầm Dơi chạy về hướng Hoà Thành, Tỉnh đội ra lệnh điều quân trở lại vị trí cũ. Lúc đó, trời đã rạng sáng, ta đưa quân vào vị trí gần như công khai, nhưng bọn nguỵ vẫn ở yên vị trí trong doanh trại, không phản ứng gì. Ðến khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, bọn nguỵ vẫn ở yên trong doanh trại, thỉnh thoảng có vài tên lính đi qua cầu Phán Tề để đi chợ. Ðại đội đưa 3 chiến sĩ ra canh ở cầu Phán Tề, đón bắt được 1 tên lính nguỵ, kêu chúng đem thư về cho bọn chỉ huy đề nghị cử sĩ quan ra đón quân giải phóng và tổ chức bàn giao.

Sáng sớm ngày 1/5/1975, quân ta tiến chiếm các cơ sở của địch và hoàn toàn làm chủ tỉnh lỵ An Xuyên (Cà Mau). Ảnh tư liệu

Sáng sớm ngày 1/5/1975, quân ta tiến chiếm các cơ sở của địch và hoàn toàn làm chủ tỉnh lỵ An Xuyên (Cà Mau). Ảnh tư liệu

Bọn nguỵ đã cử Ðại uý Bình, Giang đoàn trưởng Giang đoàn hải quân; Ðại uý Út phụ trách binh chủng bộ binh hải quân, liên quan Trung tâm chiêu hồi ra đón và mời bộ đội giải phóng vào để nhận bàn giao khu vực và vũ khí.

Lúc đó, Út Bình là Chính trị viên đại đội nên được phân công cùng 1 bảo vệ và 3 chiến sĩ vào nhận bàn giao. Ông phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng chiến sĩ, lúc vào sở chỉ huy của nguỵ, Thiếu tá Hưng ra đón (Thiếu tá Hưng là con Hào Xựng, ở khu vực Bình Hưng, Cái Ðôi Vàm, là thành phần ác ôn). Chúng chuẩn bị cà phê, nước giải khát mời đoàn, nhưng đoàn từ chối và yêu cầu bàn giao. Thiếu tá Hưng kêu Ðại uý Huỳnh lấy chìa khoá và dẫn chiến sĩ bàn giao các kho. Út Bình yêu cầu sĩ quan nguỵ ở lại, nhưng khi nhận bàn giao xong các kho trở lại thì Thiếu tá Hưng đã bỏ trốn. Sau khi làm công tác trấn an tư tưởng của nguỵ quân, ông cho tất cả lính nguỵ về nhà, chờ thông báo của địa phương sẽ ra trình diện. Quân giải phóng thì ở nhà dân và ở tạm các mái che.

Ông nhớ lại, chiều 30/4, nhiều người dân ở Cái Nước bơi xuồng ba lá ra Cà Mau để nhìn ngắm chợ Cà Mau, nơi mà chỉ mấy ngày trước chẳng ai dám nghĩ mình sẽ được đặt chân tới đây. Không chỉ người dân mà các chiến sĩ giải phóng quân hầu hết cũng bỡ ngỡ, vì đây là lần đầu tiên ra chợ Cà Mau, tất cả đều lạ lẫm. Nhiều lão nông ra tìm con cái mình là bộ đội giải phóng ra tiếp quản Cà Mau, có quen với mấy anh em trong đại đội nên đến rủ anh em ra quán uống cà phê, các chiến sĩ từ chối và nói rằng mấy chú tiền đâu mà đãi bộ đội, nhiều chú vui vẻ cho biết, đã kêu hàng xáo bán lúa lấy tiền ra Cà Mau chơi cho biết. Vào quán kêu cà phê, chủ quán đem cà phê phin ra, hầu hết đều không biết uống thế nào, cứ ngồi nhìn, có người nếm thử rồi lắc đầu, lè lưỡi, rồi trả tiền ra về...

Ấy vậy mà đã 50 năm, từ chàng trai mới 30 tuổi, nay đã ở tuổi U80, nhớ lại những kỷ niệm xưa, ông không khỏi bùi ngùi, nhớ đồng đội, thương những người dân một đời chịu thương chịu khó, sống dưới đạn bom, tới ly cà phê cũng chưa từng uống... Thế đấy, bây giờ thì nông dân lướt điện thoại, sử dụng công nghệ 4.0, có ai còn nhớ những ngày cực khổ, cận kề cái chết; bao nhiêu người nhớ những đồng đội đã ngã xuống vì độc lập, tự do cho quê hương, đất nước. Cầm bức ảnh ngày xưa, ông âm thầm rơi nước mắt, những đồng đội trong ảnh đã hy sinh gần hết...

 

Huỳnh Châu

(ghi theo lời kể của ông Trần Công Bình)

 

Sáng mãi di nguyện của Người

Tháng 5/1965, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đặt bút viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc, được Người gọi là “để lại mấy lời....” phòng khi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Ðảng khỏi cảm thấy đột ngột.

Dấu ấn hoạt động đồng chí Võ Văn Kiệt tại Cà Mau

Ðồng chí Võ Văn Kiệt - nguyên Thủ tướng Chính phủ, người được biết đến với bí danh “chú Sáu Dân” thân thương. Đồng chí đã hoạt động cách mạng, gắn bó với mảnh đất, con người Cà Mau.Trên địa bàn tỉnh hiện có 2 di tích lịch sử lưu dấu “chú Sáu Dân” với niềm tri ân, tưởng nhớ của người dân Cà Mau với đồng chí, gồm Di tích cấp tỉnh Nơi ở và Làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt, ở xã U Minh và Di tích Quốc gia đặc biệt Căn cứ Cái Chanh, ở xã Ninh Thạnh Lợi.

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...

Quốc khánh trong ký ức Mẹ Việt Nam anh hùng

80 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về ngày 2/9/1945 vẫn rực sáng trong lòng dân tộc. Giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh cất cao lời Tuyên ngôn độc lập đã khiến hàng triệu trái tim Việt Nam vỡ oà, từ thân phận nô lệ trở thành người tự do. Với các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) ở Cà Mau, ký ức về ngày Quốc khánh đầu tiên ấy mãi là niềm tự hào thiêng liêng, theo suốt cả cuộc đời.

Lê Khắc Xương - Nhà lãnh đạo kiên trung

Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở vùng đất cực Nam Tổ quốc, cách Hà Nội hàng ngàn cây số, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau) đã giành chính quyền chỉ sau Thủ đô Hà Nội 4 ngày. Ðằng sau thắng lợi ấy có vai trò quyết định của đồng chí Lê Khắc Xương, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh khu vực Bạc Liêu - nhà lãnh đạo kiên trung, người đảng viên mẫu mực.

Nghĩ về ba bản tuyên ngôn

Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.