ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 17-8-25 23:18:11
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975-30/4/2025)

Những ngày tháng Ba của mùa Xuân đại thắng

Báo Cà Mau Nửa thế kỷ đã qua kể từ mùa Xuân đại thắng 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, Bắc - Nam sum họp một nhà, đất nước thống nhất, kết thúc thắng lợi vẻ vang cuộc kháng chiến của dân tộc chống lại đế quốc sừng sỏ và bè lũ tay sai. Tháng 3/1975 là “đêm trước” của ngưỡng cửa chiến thắng. Cục diện chiến trường chuyển biến mau lẹ; không khí cách mạng dâng cao sục sôi; cùng với đó là sự lãnh đạo, chỉ đạo bằng tất cả ý chí, niềm tin, sức mạnh của Đảng ta, để toàn dân tộc cùng nhau kề vai chung sức, chớp lấy thời cơ, làm nên một chiến thắng vang dội, hào hùng, bất tử.

Tranh: Tô Minh Tấn

Tranh: Tô Minh Tấn

Đầu xuân 1975, trong không khí chiến thắng và dịp chào mừng kỷ niệm lần thứ 14 ngày thống nhất các lực lượng vũ trang Nhân dân giải phóng miền Nam, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã trao tặng lá cờ mang dòng chữ “Quyết chiến, quyết thắng vì độc lập, dân chủ, thống nhất Tổ quốc” cho các lực lượng vũ trang quân giải phóng miền Nam. Ðây cũng là mục tiêu thiêng liêng, là lời hịch núi sông trong không khí hết sức khẩn trương của cách mạng miền Nam và của đất nước.

Không khí cách mạng tại miền Nam diễn biến hết sức khẩn trương, với dấu hiệu tan rã, thất bại không thể tránh khỏi của giặc và chiến thắng tất yếu của ta. Cuối tháng 2/1975, hơn 13.000 đồng bào trương băng cờ, biểu ngữ, cầm giáo mác, gậy gộc, từ nhiều hướng tiến về thị xã Trà Vinh để đấu tranh chống chính quyền Thiệu khủng bố và bắt lính. Bất chấp địch ra sức khủng bố, đàn áp, cuộc đấu tranh vẫn tiếp tục tiếp diễn với khí thế sôi nổi. Ngày 1/3/1975, gần 3.000 sư sãi ở Trà Vinh xuống đường kéo về thị xã Trà Vinh để đòi chính quyền Thiệu chấm dứt việc vây ráp chùa, bắt các sư sãi đi lính, đòi trả tự do cho 154 vị sư sãi bị bắt bớ, giam cầm trước đó.

Ngày 3/3/1975, tất cả các cơ quan, quân đội và đoàn thể từ Trung ương đến cơ sở bắt đầu tổ chức làm việc liền 8 giờ một ngày, từ 8 giờ sáng đến 16 giờ 30 phút chiều. Từ ngày 20/3/1975, Hội đồng Chính phủ ra Nghị quyết về vấn đề này. Ðây là cuộc cải cách trong nền nếp công tác và sinh hoạt nhằm xây dựng phong cách làm việc mới, tất cả để chuẩn bị cho một bộ máy tổ chức của một đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, hoà bình, thống nhất và tăng cường sức mạnh của toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân cho trận quyết chiến cuối cùng với giặc thù.

Từ ngày 4/3-3/4/1975, Chiến dịch Tây Nguyên nổ ra. Chiến dịch Tây Nguyên nhằm mục đích tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng các tỉnh Nam Tây Nguyên, tạo thế chia cắt chiến lược để giải phóng miền Nam. Chiến dịch tổ chức tiến công vào các tỉnh Nam Tây Nguyên: Phú Bổn, ÐắK LắK và Quảng Ðức (theo phân chia hành chính chế độ cũ).

Bộ Tư lệnh chiến dịch gồm Tư lệnh - Trung tướng Hoàng Minh Thảo, Chính uỷ, Ðại tá Ðặng Vũ Hiệp. Sau một số trận đánh mang tính nghi binh, tạo thế thu hút địch trên chiến trường Plây Ku, từ ngày 4/3/1975 ta bước vào tạo thế cắt Ðường 19, 21, chia cắt chiến lược Tây Nguyên với vùng đồng bằng duyên hải Nam Trung Bộ; cắt Ðường 14, chia cắt chiến trường Bắc và Nam Tây Nguyên; ta tập kích bằng đặc công và hoả lực pháo binh vào Kon Tum. Ngày 8/3/1975, ta đánh quận lỵ Thuần Mẫn; ngày 10, 11/3, ta diệt vị trí Ðức Lập, cô lập triệt để Buôn Ma Thuột. Cũng trong 2 ngày này, Sư đoàn 361, Trung đoàn Ðặc công 198 tiêu diệt Buôn Ma Thuột, mục tiêu then chốt chủ yếu của chiến dịch.

Ðịch phản ứng bằng cách đổ bộ bằng đường không xuống Phước An để phản kích. Sư đoàn 10, Trung đoàn 25 của ta đánh chặn tiếp viện từ ngày 4-18/3, Sư đoàn 23 và Liên đoàn biệt động quân 21 của địch bị tiêu diệt. Ðể bảo toàn lực lượng, địch phải bỏ Bắc Tây Nguyên rút chạy về đồng bằng theo đường Số 7 liên tỉnh. Sư đoàn 320 của ta truy kích, giặc thiệt hại nặng nề, mở đường giải phóng Cheo Reo, Củng Sơn. Từ ngày 18-24/3, ta giải phóng thị xã Kon Tum, Plây Ku, Gia Nghĩa. Các đơn vị vũ trang cách mạng tiếp tục phát triển xuống vùng đồng bằng duyên hải Nam Trung Bộ, tiêu diệt sinh lực quan trọng của địch, phối thuộc với các lực lượng cách mạng tại chỗ giải phóng đồng loạt Bình Khê, Phú Yên, Nha Trang, Cam Ranh. Chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi giòn giã, giải phóng các tỉnh Tây Nguyên và Nam Trung Bộ, đây được coi là chiến dịch thể hiện đỉnh cao nghệ thuật về chọn hướng (mục tiêu), nghi binh, tạo thế vây, cắt, tập trung lực lượng giành và giữ quyền chủ động phát triển và tiến công. Thắng lợi của chiến dịch mở ra bước ngoặt đưa cuộc chiến tranh từ tiến công đến chủ trương tổng tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam.

Tiếp đó, từ ngày 5-25/3, ta tổ chức chiến dịch Trị - Thiên. Chiến dịch nhằm tiêu diệt cứ điểm mạnh của địch ở các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, giải phóng Huế. Lực lượng chủ lực của ta là Quân đoàn 2, phối thuộc các lực lượng tại chỗ gồm Quân khu Trị - Thiên và bộ đội địa phương. Với sức mạnh vũ bão, ta giải phóng Quảng Trị ngày 19/3. Từ ngày 21-25/3, quân ta tiến công và giải phóng Huế, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch trên chiến trường Trị - Thiên. Chiến dịch này thể hiện rõ trình độ nghệ thuật nắm thời cơ, xác định đúng mục tiêu, kiên quyết thọc sâu, chia cắt, bao vây để giành thắng lợi nhanh chóng. Thắng lợi của chiến dịch đã đẩy nhanh quá trình sụp đổ của Mỹ - Nguỵ, tạo bàn đạp trực tiếp trên hướng Bắc để quân dân ta mở chiến dịch giải phóng Ðà Nẵng, tiến gần hơn đến với đầu não sào huyệt cuối cùng của giặc ở Sài Gòn.

Trong tháng 3/1975, Quân đoàn 4 và các lực lượng vũ trang Ðông Nam Bộ và Nam Trung Bộ đẩy mạnh hoạt động phối hợp và khí thế chiến thắng của các chiến dịch lớn Tây Nguyên, Trị - Thiên, Ðà Nẵng, tạo bàn đạp và mở đường tiến công Sài Gòn. Các lực lượng của ta đánh chiếm các chi khu quân sự, quận lỵ Dầu Tiếng, Chơn Thành và toàn tỉnh Bình Long; đồng thời mở thông các tuyến đường Số 13, 14; diệt chi khu quân sự Bến Cầu, Ðức Huệ, chia cắt đường Số 4. Sư đoàn 7 của ta đánh chiếm chi khu quân sự Ðịnh Quán, giải phóng đường Số 20 và tỉnh Lâm Ðồng.

Ngày 18/3, Bộ Chính trị họp, nhận định: Những thắng lợi to lớn của ta có ý nghĩa chiến lược, đánh dấu một bước rất mới trong cục diện chung, một bước suy sụp mới của Mỹ - Nguỵ. Ðịch đang co cụm chiến lược, có thể co cụm ở Ðà Nẵng, Cam Ranh... Bộ Chính trị hạ quyết tâm hoàn thành giải phóng miền Nam trong năm 1975. Nhiệm vụ trước mắt là tiêu diệt Quân đoàn 1 của địch, không cho chúng rút về Sài Gòn, giải phóng Huế, Ðà Nẵng và các tỉnh Nam Trung Bộ.

Ngày 25/3/1975, Bộ Chính trị họp, nhận định: “Thời cơ chiến lược đã tới. Trong suốt 20 năm chống Mỹ cứu nước, chưa bao giờ thuận lợi bằng lúc này”. Do đó, cần “nắm vững thời cơ chiến lược mới, tranh thủ thời gian cao độ, nhanh chóng tập trung lực lượng vào hướng chủ yếu, hành động táo bạo bất ngờ, làm cho địch không kịp trở tay”. Bộ Chính trị quyết định: “Quyết tâm hoàn thành giải phóng Sài Gòn và miền Nam trước mùa mưa (tháng 5/1975)”.

Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 241/NQTW thành lập Hội đồng chi viện miền Nam ở Trung ương, Chủ tịch là đồng chí Phạm Văn Ðồng, Thủ tướng Chính phủ; 2 Phó chủ tịch là đồng chí Lê Thanh Nghị, Phó thủ tướng Chính phủ và đồng chí Phan Trọng Tuệ, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải. Cùng với đó, Bộ Tổng Tham mưu quyết định điều động một bộ phận lớn Quân đoàn 1 vào tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn; Sư đoàn 308 là lực lượng làm nhiệm vụ dự bị bảo vệ miền Bắc.

Từ ngày 26-29/3, Chiến dịch Ðà Nẵng thắng lợi. Quân ta chiếm toàn bộ căn cứ quân sự liên hợp Ðà Nẵng, bán đảo Sơn Trà và thị xã Hội An, tiêu diệt và làm tan rã một lực lượng lớn quân địch, thu và phá huỷ toàn bộ vũ khí, cơ sở vật chất của chúng, làm thay đổi cục diện và so sánh lực lượng giữa ta và địch; tạo điều kiện thuận lợi cho chiến dịch chiến lược giải phóng Sài Gòn.

Ngày 26/3, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Quân đoàn 3, tức Binh đoàn Tây Nguyên, do Thiếu tướng Vũ Lăng làm Tư lệnh; Chính uỷ là Ðại tá Ðặng Vũ Hiệp. Quân Mỹ - Nguỵ tan rã, binh biến, bỏ vị trí và tháo chạy tán loạn. Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1 - Vùng 1 chiến thuật của Nguỵ, bỏ chạy ra bán đảo Sơn Trà, lên tàu chiến Mỹ chạy trốn vào Sài Gòn.

Ngày 27/3, Quân uỷ Trung ương ra quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Mặt trận Quảng Ðà, phiên hiệu Bộ Tư lệnh 475, Tư lệnh là Trung tướng Lê Trọng Tấn, Chính uỷ là Thượng tướng Chu Huy Mân, đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng.

Ngày 31/3, Bộ Chính trị nhận định: Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt mà thời cơ chiến lược để tiến hành tổng tiến công vào sào huyệt của địch đã chín muồi. Trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ Nhân dân ở miền Nam và thực hiện hoà bình thống nhất Tổ quốc. Bộ Chính trị quyết định mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4/1975, không thể để chậm.

Các mũi tiến công của ta nhằm hướng Sài Gòn thẳng tiến, tổ chức sẵn sàng những đơn vị binh chủng hợp thành đủ mạnh để khi thời cơ xuất hiện thì tức khắc chiếm đánh các mục tiêu quan trọng nhất ở trung tâm Sài Gòn. Tư tưởng chỉ đạo của cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân đại thắng 1975 được Bộ Chính trị hạ quyết tâm: thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng.

(Theo "Hồ sơ về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 - Mùa xuân toàn thắng").

 

Phạm Quốc Rin tóm lược

 

Trung đoàn Đặc công Đ10 kỷ niệm 80 năm thành lập

Ngày 9/8, Trung đoàn Đặc công Đ10 Anh hùng long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập, khẳng định truyền thống vẻ vang và tiếp nối ngọn lửa nhiệt huyết cách mạng cho thế hệ sau.

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.