ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 6-7-25 00:09:30
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Những “nhà điêu khắc” thầm lặng

Báo Cà Mau Đến bây giờ, nhiều người vẫn chưa hiểu được hoạt động của một bộ phận “tuyệt đối bí mật” góp phần làm nên chiến thắng vẻ vang giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Cũng vì nó “quá bí mật” nên sau 40 năm kể từ ngày giải phóng, Viễn thông Cà Mau mới tổ chức sưu tầm và sự thật tuyệt vời về bộ phận này được hiện rõ dần. Chúng tôi gọi họ là những “nhà điêu khắc thầm lặng”, bởi họ đã khắc hoạ vào lịch sử dân tộc những đường nét hào hùng và độc đáo.

Đến bây giờ, nhiều người vẫn chưa hiểu được hoạt động của một bộ phận “tuyệt đối bí mật” góp phần làm nên chiến thắng vẻ vang giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Cũng vì nó “quá bí mật” nên sau 40 năm kể từ ngày giải phóng, Viễn thông Cà Mau mới tổ chức sưu tầm và sự thật tuyệt vời về bộ phận này được hiện rõ dần. Chúng tôi gọi họ là những “nhà điêu khắc thầm lặng”, bởi họ đã khắc hoạ vào lịch sử dân tộc những đường nét hào hùng và độc đáo.

Ông Phạm Hữu Phương (Ba Trương), nguyên Phó Giám đốc Ðài PT-TH Minh Hải, cho biết, năm 1957, ông công tác tại Ðiện đài liên Tỉnh uỷ, bí mật với nhiệm vụ cơ công kỹ thuật, máy móc do Phòng Vô tuyến điện Nam Bộ cung cấp. Có lần, đồng chí Phan Ngọc Sến (Mười Kỷ) gặp ông kể chuyện: Nhân dân họ nghe được địch đàm thoại trên sóng điện khi đi càn quét… Ông Phương giải thích, trên sóng 75 m khi bắt radio ta có thể nghe được mệnh lệnh hành quân của địch. Kể từ đó, một bộ phận bí mật tại Thường trực Tỉnh uỷ Cà Mau ra đời, tức mã thám (trinh sát kỹ thuật), chuyên theo sát kế hoạch hành quân của địch từ tiểu khu (tỉnh) đến các chi khu (quận) và cả hệ thống đồn bót trong tỉnh mà chúng không hề hay biết.

Ông Út Yên (bên trái) phụ trách bộ phận điện đài của Tỉnh uỷ Cà Mau, đang làm việc với ông Chí Tâm tại căn cứ dã chiến - xóm Rạch Rập, ven thị xã Cà Mau, phục vụ cho cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân (1968). Ảnh: VÕ AN KHÁNH

Anh hùng LLVTND Trần Phương Thế, nguyên Phó Giám đốc Công an tỉnh Cà Mau, kể lại: “Tôi biết mã thám từ năm 1960. Thời gian đó, tôi, Sáu Bổn, Mười Thới đi học điện đài ở khu. Trong lúc học, chúng tôi thường nghe sóng cực ngắn của đài địch như “anh dũng, bất bình, cải cách” không hiểu gì cả. Chúng tôi hỏi mới được thầy dạy morse, giải thích rõ. Khi biết chút đỉnh, tôi ngồi nghe để xem địch nói gì, thì thấy chúng nói “anh dũng” tức là A, “cải cách” là C, “bất bình” là B… Lúc đầu nghe lộn xộn, không hiểu được, sau này nghe từ A tới Z đều biết hết. Từ đó mình thấy quan trọng rồi”.

Với phương tiện hiện đại và mật mã tinh vi, chúng ta không có gì để so sánh với địch trên lĩnh vực này. Tuy nhiên, do lòng yêu nước nồng nàn, chúng ta luôn biến những điều không thể thành có thể. Ông Nguyễn Việt Hùng (Hai Nam), nguyên Phó trưởng Ban Thông tin Vô tuyến điện Khu Tây Nam Bộ, nguyên Giám đốc Bưu điện tỉnh Minh Hải, khẳng định: “Lịch sử ngàn xưa đã dạy “Biết địch, biết ta trăm trận trăm thắng”. Mã thám là ngành làm cho ta biết địch rõ hơn, từ đó mà ta tránh né được thiệt hại, đồng thời cũng từ đó, ta tổ chức tiến công địch giành thắng lợi rất dễ dàng. Mã thám không có hệ thống, không có luyện tập mà do trí tuệ của anh em làm công tác này, tự mình suy nghĩ, nghiên cứu, tìm tòi. Do nhạy bén của anh em mình mà dịch được tất cả mật mã của địch, làm cho ta nắm được địch một cách nhanh lẹ, kịp thời”.

Ngày 14/7/1966, mã thám nhận được công điện của Tiểu khu Cà Mau ra lệnh cho Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng (nay thuộc xã Tân Hải, huyện Phú Tân) do Nguyễn Lạc Hoá cầm đầu, hành quân tiến công trại giam của ta tại khu rừng 388. Thường trực Tỉnh uỷ chỉ thị cho Tiểu đoàn U Minh II, lập tức lên đường phục kích tại kinh Ðòn Dong, ấp Tân Quảng, xã Tân Hưng Tây, huyện Cái Nước đón đánh địch. Trong trận này ta tiêu diệt một tiểu đoàn quân Tàu Tưởng, còn gọi là Tàu Phù, gồm 245 tên, có 4 tên cố vấn Mỹ da trắng và tên chỉ huy trưởng, bắt sống 24 tên, có 1 tên Mỹ da đen, thu trên 100 súng các loại, 12 máy PRC 25 và nhiều quân trang, quân dụng khác. Bình Hưng là biệt khu quân sự khét tiếng gian ác của địch ở Cà Mau, chúng ăn gan, uống mật và bắt người trụng nước sôi làm thịt. Sau trận đánh kinh hoàng này, tớ thầy Nguyễn Lạc Hoá không còn kiêu căng, hung hãn như trước. Ngày 29/10/1969, địch đổi tên quận Cái Nước thành quận Hải Yến, tại Bình Hưng chỉ còn căn cứ quân sự. Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng bị xoá sổ.

Tiếp nối những chiến công của mã thám hoạt động trên địa bàn tỉnh Cà Mau, ông Trần Phương Thế kể tiếp: “Cuối năm 1971, đồng chí Võ Văn Kiệt về làm Bí thư Khu uỷ Tây Nam Bộ, thay đồng chí Phạm Thái Bường về Trung ương Cục. Lúc đầu đồng chí Võ Văn Kiệt ở khu vực rừng đước, nhưng sau đó lên đứng chân chỉ đạo ở U Minh. Trong một lần, cơ quan Khu uỷ đang ở Mống Chiêm (nay thuộc xã Khánh Tiến, huyện U Minh), chúng tôi nắm được kế hoạch hành quân của địch là chúng sẽ đánh ngay. Tôi lập tức ghi toạ độ và chấm bản đồ rồi đến báo cáo các chú. Khi mọi người vừa đi khỏi chưa quá 100 m, máy bay trinh sát địch đã tới quần đảo, bắn trái khói màu và phản lực đã lao tới trút bom. Chúng tôi nhanh chóng di chuyển ngày càng xa. Ðịch cho 3 phi đội, 9 máy bay ném bom, hầm hố của ta đều bị huỷ diệt. Chúng đổ quân gần kinh Thống Nhất, từ phía biển kéo vô. Ðịch vào đóng quân ngay căn cứ của ta, nhưng nhờ mã thám, ta biết trước, đã rút lui an toàn. Sau chiến dịch Nhổ cỏ U Minh, cơ quan Khu uỷ lên vùng giáp ranh ba tỉnh: Rạch Giá, Sóc Trăng và Cần Thơ. Ta đang tiến công mở mảng tuyến này. Ðịch cho B52 ném bom đến năm lần, nhưng do ta nắm được hết nên không bị thiệt hại".

Ngày 14/11/1970 âm lịch, lúc cơ quan Tỉnh uỷ đóng ở Tắc Năm Căn, chủ trì một cuộc hội nghị ở khu vực này, do đồng chí Trần Hữu Vịnh (Hai Thống), Phó Bí thư Tỉnh uỷ phụ trách. Ðồng chí Phạm Minh Quang (Bảy Nghĩa, nguyên Giám đốc Bưu điện Cà Mau), bấy giờ là cán bộ mã thám, nhận tin: địch cho 1 tiểu đoàn càn vào Bù Mắc, nơi có xưởng in, cơ quan Tiểu ban Giáo dục, Dân y và một số cơ quan khác. Ðược tin, hội nghị dừng lại, một số cán bộ ra về, trong đó có đồng chí Tư Nhẫn, Trưởng Tiểu ban Giáo dục, đồng chí Tám Cẩn, Hai Hồng, Năm Trấn đều là cán bộ Ban Tuyên huấn tỉnh. Thật đáng tiếc, dù mã thám biết địch đóng quân tại Kinh Tắc nhưng không cách nào thông báo cho các đồng chí được, nên các đồng chí lọt vào nơi đóng quân của chúng. Ðồng chí Tư Nhẫn hy sinh tại chỗ, đồng chí Hai Hồng, Năm Trấn bị bắt, chỉ có Tám Cẩn thoát được chạy về cơ quan.

Ngày hôm sau, khi Phạm Minh Quang nhận được tin địch càn vào cơ quan liền báo cho đồng chí Nguyễn Văn Ðáng (Tư Huờn), Bí thư Tỉnh uỷ để lập tức di dời. Khi ta mới đi cách cơ quan chừng 500 m, địch đã tràn tới đập phá hết nhà cửa, tài sản. Một trận khác lúc ở Cái Chim, bọn chỉ điểm báo cho địch có cơ quan Tỉnh uỷ đóng vùng này, mã thám nhận được tin địch sẽ đổ quân càn vào đây. Văn phòng Tỉnh uỷ liền dời về đầm Bà Tường, mới cách Cái Chim chừng ba cây số, địch đã nã pháo tới tấp vào Cái Chim dọn bãi cho trực thăng đổ quân.

Ðồng chí Phạm Thạnh Trị, nguyên Chánh Văn phòng Tỉnh uỷ, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh, nhớ lại: “Chúng tôi phục vụ hội nghị tại kinh Ông Ðơn trở về Kinh Cống, vừa đến nơi thì các anh Tám Thậm, Bảy Nghĩa cho biết, địch đã có kế hoạch đánh vào đây. Tôi thấy đầm già đảo cách Kinh Cống rất xa, nhưng khi phản lực đến, chúng liền quăng trái khói để phản lực ném bom xuống Kinh Cống, cách xuồng tôi chừng 50 m, tôi chun xuống hầm tránh phi pháo. Nhà cửa chung quanh sụp đổ hết. Trong khi đó các đồng chí Thường vụ Tỉnh uỷ đã dời qua Cái Chim an toàn, chỉ cách một con sông. Khi chúng cho toạ độ ở đâu là đánh ngay đó, rất chính xác. Ðó là một trận mà sống chết đối với tôi chỉ trong gang tấc. Thực tế đó khẳng định rằng, nếu không có mã thám, không thể thoát khỏi những trận càn ruồng vô cùng nguy hiểm, vì địch thường phát hiện được cơ quan lãnh đạo của ta”.

Không chỉ bảo đảm an toàn căn cứ Tỉnh uỷ, Khu uỷ, lực lượng mã thám Cà Mau còn cung cấp nhiều mật lệnh về hành trình tiến quân của địch ở các toạ độ khác nhau. Gần nửa thế kỷ trôi qua, mỗi khi nhắc đến trận Ðất Cháy, nỗi kinh hoàng vẫn còn ám ảnh trong tâm trí Trung sĩ Kỷ Hùng Sứ, Ðại đội 967, Quân lực Việt Nam Cộng hoà: “Ðơn vị chúng tôi được lệnh tấn công vào Ðất Cháy để tiêu diệt Ðoàn Văn công giải phóng và Ð10. Khi chúng tôi lên 5 chiếc trực thăng từ Sân bay Cà Mau bay xuống Ðất Cháy, khoảng 13 giờ chiều. Lúc máy bay hạ xuống gần đụng nóc nhà, thì nghe súng nổ chát chúa. Mấy chiếc máy bay xuống trước trúng đạn, có chiếc bốc cháy. Chiếc tôi đi bị 12 vết đạn nhưng cố gắng hạ xuống bốc thêm mấy người Mỹ lên rồi ráng bay qua đồn Rau Dừa và rớt tại Rau Dừa. Trên máy bay chở tôi có 12 người lính, đã chết 10 người, tôi bị thương và duy nhất một người còn sống sót. Ðiện đài không còn nói gì được với nhau. Rơi tại khu vực đầm Bà Tường ba chiếc, trong đó có thằng bạn thân của tôi bị chết cháy trong chiếc máy bay rơi tại chỗ, nó ở Trung đội 2, còn tôi ở Trung đội 1”.

Lý do nào địch rơi vào thảm kịch kinh hoàng như thế? Câu trả lời được hé lộ từ cán bộ mã thám Phạm Minh Quang: “Lúc 0 giờ đêm 22/4/1971, mã thám phát hiện địch sẽ đổ quân xuống Ðất Cháy. Thường trực Tỉnh uỷ thông báo cho Ð10 đang đóng quân gần đó và bàn kế hoạch đánh địch. Ngày hôm sau, bọn địch từ Chi khu Rạch Ráng bắn pháo vào trận địa ta rồi máy bay đầm già đến quần đảo. Lúc này cơ quan Tỉnh uỷ đang ở Xẻo Ðước, cách trận địa chừng vài cây số. Tôi leo lên cây bình bát, thấy một bầy trực thăng từ Cà Mau bay đến. Lực lượng Ð10 đã kích sẵn tại đất ông Hai Thi, Bảy Thâu, Ba Chánh, ấp Ðất Cháy, có 4 khẩu 12,8 ly. Máy bay địch mới vừa đổ quân, ta nổ súng, nhiều chiếc trực thăng rơi, một chiếc rơi xuống đầm Bà Tường”.

Ðồng chí Phạm Thạnh Trị là người thường đau đáu khi mỗi lần nhắc lại hoạt động của mã thám: “Lúc tôi về văn phòng, anh Tư Vui là người công tác mã thám đầu tiên, anh hy sinh trong trận địch đánh bom ở Rẫy Mới, huyện Trần Văn Thời. Anh Ba Bảo tiếp tục phụ trách mã thám, lúc đó có anh Năm Nhựt (Ðoàn Nghĩa Hiệp), em út đồng chí Ðoàn Quang Vũ, Thường vụ Tỉnh uỷ. Năm Nhựt còn trẻ nhưng rất nhạy bén với nghiệp vụ này. Tháng 10/1966, Hội nghị An ninh tỉnh tại Bù Mắc, do Tỉnh uỷ chủ trì, Văn phòng Tỉnh uỷ cử Năm Nhựt và đồng chí Sáng đến Bù Mắc theo dõi tình hình, phục vụ hội nghị. Khi nhận được tin địch sẽ đánh ngay hội nghị do điềm chỉ báo cáo, có toạ độ cụ thể, Năm Nhựt lập tức chèo xuồng đến báo cho các anh lãnh đạo tại hội nghị, để các anh di dời an toàn. Trên đường về, cách điểm hội nghị chưa xa, máy bay địch đến cắt bom, Năm Nhựt hy sinh, thân thể tan nát hết. Chúng tôi đến đưa thi hài anh về an táng tại kinh xáng Bà Kẹo. Cơ quan rút anh Bảy Nghĩa lên cùng anh Ba Bảo tiếp tục thực hiện nhiệm vụ. Năm 1969, trên đường đi phục vụ hội nghị tại Kinh 3, nay thuộc xã Hiệp Tùng, huyện Năm Căn, Ba Bảo bị địch đổ quân bắn hy sinh, đồng chí Sáng bị bắt, toàn bộ máy móc, tài liệu của ta địch lấy được hết. Ðồng chí Bảy Nghĩa tiếp tục công việc hết sức bối rối vì địch đã thay đổi toàn bộ mật mã. Anh Sáng không bao giờ khai báo cho đến sau này, khi ta trao trả tù binh, anh mới được trở về”.

Nhiều nhân chứng lịch sử chứng minh sự đóng góp to lớn của mã thám trong công cuộc chiến đấu giải phóng quê hương, đất nước. Hoà bình đã hơn 40 năm nhưng chiến công của những chiến sĩ mã thám vẫn còn ít người biết đến và có nguy cơ đi vào quên lãng. Ông Phạm Minh Quang tâm sự: “Hoạt động mã thám góp phần trả lời một câu hỏi nhỏ: Vì lẽ gì dân tộc ta thắng Mỹ, trong khi chúng có tiềm lực quân sự lớn hơn ta gấp vạn lần? Ông cha ta đã dạy “mạnh dùng sức, yếu dùng thế”. Mã thám là một loại “thế” bí mật, bất ngờ làm cho quân thù không thể hiểu được ta”.

Ðồng chí Thái Huyền Trân, phụ trách mã thám Tỉnh đội Cà Mau, tha thiết: “Nhiều anh em mã thám ngày xưa giờ còn gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, trong khi trước đây họ là những người làm việc tận tuỵ, quên mình, suốt cả đêm ngày không ngơi nghỉ. Mong được sự quan tâm hơn từ Ðảng, Nhà nước để phần nào giúp họ về đời sống...”.

Anh hùng LLVTND Lý Hữu Trí bức xúc: “Là người hoạt động trong ngành tình báo, sang An ninh vũ trang, tôi hiểu được nhiều việc bí mật mà từ lâu không có dịp trình bày. Chưa có tỉnh nào như Cà Mau, căn cứ Tỉnh uỷ ở một chỗ rất nhiều năm mà vẫn tồn tại, lại có máy đèn phục vụ, anh em tới lui nhộn nhịp, hoạt động sôi nổi, liên tục mà vẫn an toàn. Thực tế đó khẳng định rằng, nếu không có mã thám và sự bảo bọc của Nhân dân, không thể nào có được sự bình yên như vậy”.

Chúng ta tin rằng khi những sự thật về mã thám được công bố đầy đủ, Ðảng và Nhà nước địa phương sẽ có chính sách đãi ngộ tương xứng đối với những chiến tích mà những “nhà điêu khắc thầm lặng” đã tạo nên những đường nét lịch sử chiến đấu vô cùng độc đáo trên quê hương Cà Mau anh hùng./.

Trường Sơn Ðông

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Ðài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến - Tiếng nói của khát vọng độc lập, tự do

Đài Nam Bộ Kháng chiến ra đời những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947-1954). Có lúc đóng ở Ðồng Tháp Mười (Long An); có giai đoạn ở Thới Bình, Ðầm Dơi, Ngọc Hiển, U Minh (Cà Mau), hay Kiên Giang, Bạc Liêu; có thời điểm đài đổi tên thành Ðài Tiếng nói Nam Bộ. Tuy vậy, dù ở bất cứ nơi đâu, tên gọi khác nhau, nhưng các thế hệ cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên của đài không ai được đào tạo bài bản về phát thanh nhưng đã làm nên một đài phát thanh vang danh, lừng lẫy; tạo dấu ấn đặc biệt trong lịch sử báo chí Việt Nam nói chung và ngành phát thanh nói riêng. Ðó là tiếng nói của Uỷ ban Nam Bộ Kháng chiến; cầu nối của Ðảng, Bác Hồ với đồng bào Nam Bộ; là ước mong, khát vọng của đồng bào nơi đây về một Việt Nam độc lập, tự do.

Những khó khăn, thách thức của người làm báo trong thời kháng chiến

Mùa khô năm 1964, lần thứ hai tôi theo mẹ từ Bến Tre vào Cà Mau thăm ba tôi đang làm ruộng và dạy học tư ở Kinh Hãng Giữa... Ba tôi bất hợp pháp kể từ năm bác ruột thứ tư của tôi - 1 trong 12 người Việt Minh làng Ba Mỹ bị giặc Pháp bắt chặt đầu ở bót Nhà Việc Mỹ Chánh năm 1946... Lần này, ba tôi không cho tôi trở về quê nữa, vì về ngoải mai mốt lớn lên tụi giặc nó bắt lính... Thế là tôi phải ở lại trong này, thành công dân Cà Mau từ đó.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.