Khi cánh cửa lập nghiệp quê nhà quá hẹp, thanh niên ở nhiều vùng nông thôn Bạc Liêu ồ ạt rời quê lên phố mang theo khát vọng về một tương lai tươi sáng. Tuy nhiên, phía sau làn sóng di cư lập nghiệp đó vẫn còn bao điều trăn trở, làm ảnh hưởng, tác động không nhỏ đến nguồn nhân lực và nền kinh tế địa phương. Giải pháp nào để tháo gỡ thực trạng trên nhằm giữ nguồn nhân lực trẻ ở lại với quê hương là vấn đề cần đặc biệt quan tâm!
Bài 1: Ồ ẠT RỜI QUÊ ĐI LẬP NGHIỆP
Bài 2: Áp lực cho “người đi” và cả “nơi đi”
Huyện đoàn Hòa Bình phối hợp với doanh nghiệp tặng con giống cho thanh niên nghèo xã Vĩnh Hậu (huyện Hòa Bình). Ảnh: Tiến Luận
Những người con rời quê đi lập nghiệp phương xa, bỏ lại sau lưng họ là những làng quê hiu hắt chỉ còn người già và trẻ em. Kéo theo đó là chất lượng sinh hoạt, phong trào, tổ chức Đoàn tại địa bàn dân cư cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ. Ngoài ra, nguồn lao động địa phương cũng bị thiếu hụt cùng những tác động đến “nơi đi”, “nơi đến” và cả “người đi”…
Ảnh hưởng từ phong trào di cư lập nghiệp
Theo số liệu của Tỉnh đoàn, số lượng đoàn viên - thanh niên sinh hoạt tại các chi đoàn địa bàn dân cư hiện nay dao động từ 5 - 10 đoàn viên. Mặc dù nhiều biện pháp đã được đưa ra để thu hút và nâng chất hoạt động của các chi đoàn nhưng vẫn chưa đạt kết quả như mong đợi.
Qua tìm hiểu của chúng tôi, có chi đoàn nhiều tháng liền không tập hợp được đoàn viên sinh hoạt, vẫn có tình trạng chi đoàn trắng đoàn viên... Do thiếu đoàn viên sinh hoạt nên khi cần huy động thanh niên tham gia các hoạt động, phong trào địa phương, các chi đoàn ấp chỉ vận động được 4 - 5 đoàn viên, còn lại phải nhờ đến nguồn thanh niên cấp xã, huyện…
Những năm qua, phong trào di cư lập nghiệp của lao động trẻ đã giúp nhiều gia đình ở nông thôn cải thiện phần nào cuộc sống, góp phần thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo ở địa phương, giảm những tệ nạn, tiêu cực xuất phát từ cuộc sống nghèo khó. Tuy nhiên, mặt trái của vấn đề là địa phương lại thiếu hụt số lượng lớn nguồn nhân lực lao động chính hội đủ các yếu tố trẻ, có sức khỏe, khả năng nhạy bén trong việc tiếp thu, ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất. Bạn Trần Bích Thùy, Bí thư Xã đoàn Phong Thạnh (TX. Giá Rai), cho biết: “Vụ mùa năm nay, một số ấp trong xã thiếu lao động trầm trọng. Có nơi, chủ ruộng mướn nhân công cắt lúa đến 600.000 đồng/người/công, nhưng vẫn thiếu người làm”.
Theo số liệu thống kê của Bộ LĐ-TB&XH, có khoảng 90% lao động nông thôn di cư là người trẻ. Hiện tại, ở các vùng nông thôn chỉ còn người già và trẻ em, còn thanh niên ở độ tuổi lao động từ 18 - 30 rất ít. Điều này gây khó khăn cho các địa phương trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội như: công nghiệp hóa - hiện đại hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông - lâm - ngư nghiệp sang dịch vụ nông nghiệp; đẩy mạnh các ứng dụng công nghệ vào sản xuất; cần lực lượng thanh niên trẻ năng động, tiên phong, giàu ý tưởng…
Đặc biệt, với số lượng lớn lao động trẻ đến các thành phố lớn khi các địa phương muốn thu hút doanh nghiệp thực hiện các dự án lại gặp khó khăn trong việc tìm nguồn lao động. Một chủ doanh nghiệp trên địa bàn huyện Đông Hải than thở về việc cơ sở của anh gặp không ít khó khăn trong việc tìm kiếm nhân công. Nhân công tuyển dụng được vài tháng là họ lại bỏ việc để lên các thành phố lớn làm công nhân, giá nhân công cũng bị đẩy lên cao…
Bơ vơ cảnh sống “nửa chợ nửa quê”
Quá trình di cư của lao động trẻ bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân: sự chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị, được tiếp cận với môi trường làm việc công nghiệp, các dịch vụ phục vụ đời sống tiên tiến… Song, nguyên nhân chính vẫn là nhu cầu việc làm và mưu sinh. Quá trình tăng dân số dẫn đến đất chật người đông cùng với quá trình cơ giới hóa nông nghiệp những năm gần đây làm gia tăng áp lực việc làm của lao động nông thôn. Trong khi đó, trong tỉnh lại có quá ít công ty, xí nghiệp so với nhu cầu người lao động.
Anh Nguyễn Chí Nguyện (xã Long Điền, huyện Đông Hải) có đến 5 anh em. Đến tuổi lập gia đình, mỗi người được cha mẹ chia đều cho 4 công đất làm kế sinh nhai. Diện tích đất không lớn, không vốn sản xuất, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, thu nhập từ nghề nuôi tôm cũng bấp bênh, vợ chồng anh Nguyện quyết định bán lại mảnh đất cho người anh trai để đi làm công nhân ở tỉnh Đồng Nai. Qua 4 năm làm công nhân nơi xứ lạ, hai vợ chồng vẫn ở nhà thuê tại khu lao động nghèo, sinh hoạt vẫn thắt lưng buộc bụng, số tiền tằn tiện dành dụm được sau 4 năm là vài chục triệu đồng để dành phòng thân và nuôi con ăn học sau này. Anh Nguyện cho biết: “Tôi đã quen với guồng máy lao động ở đây. Trở về quê tôi không biết bắt đầu từ đâu? Còn ở lại đây thì phải chịu cảnh sống bấp bênh qua ngày đoạn tháng”.
Sự tập trung quá đông người lao động gây áp lực không nhỏ cho những đô thị lớn về an ninh trật tự, môi trường, các dịch vụ đời sống, chăm sóc sức khỏe, không đáp ứng kịp thời việc xây các khu nhà ở dành cho lao động thu nhập thấp. Vì vậy, lao động tạm nhập cư rất khó để an cư và có được những chính sách an sinh như người dân sở tại. Phần lớn lao động trẻ nhập cư đều rơi vào tình cảnh “nửa chợ nửa quê”. Ở các thành phố lớn, họ là đối tượng lao động nhập cư có thu nhập thấp, chất lượng sống không đảm bảo, còn quay trở về quê thì họ không biết bám trụ vào đâu khi mà cánh cửa lập nghiệp cho thanh niên còn quá hẹp. Khi ra phố lập nghiệp, hầu hết bạn trẻ đều có chung nhu cầu trước mắt là có công ăn việc làm mà không có kế hoạch cụ thể. Ít ai trả lời được câu hỏi 5 - 10 năm sau mình sẽ ra sao?
Anh Lương Văn Pho, Phó Bí thư Tỉnh đoàn, bày tỏ: “Khi địa phương không thể đáp ứng nhu cầu việc làm cho thanh niên thì việc họ rời quê đi lập nghiệp là điều đương nhiên. Nếu giữ họ lại mà không có việc làm ổn định sẽ sinh ra nhiều vấn đề tiêu cực trong đời sống. Rất nhiều cái khó của thanh niên gặp phải khi lập nghiệp ở quê nhà, đó là việc tiếp cận nguồn vốn, giá cả nông sản bấp bênh, đầu ra sản phẩm…”.
Quả thật, những khó khăn trên con đường lập nghiệp của thanh niên Bạc Liêu tại quê nhà nằm ngoài khả năng giải quyết của tổ chức Đoàn. Vì vậy, rất cần sự nhập cuộc tích cực từ mỗi địa phương để giữ chân những lao động trẻ ở lại quê hương.
Tuấn Anh