ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 17-8-25 01:40:48
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Trường trung học kháng chiến Ninh Bình - Một thời gian nan mà kiêu hãnh

Báo Cà Mau (CMO) Trong những ngày tháng Tư lịch sử, tỉnh Cà Mau long trọng tổ chức tổng kết chương trình hợp tác giữa các tỉnh Cà Mau - Bạc Liêu - Ninh Bình, giai đoạn 2017-2022. Nhìn về quá khứ, tỉnh Cà Mau - Bạc Liêu - Ninh Bình đã kết nghĩa trên 60 năm, thời gian đủ dài để khẳng định sự gắn bó keo sơn, thuỷ chung giữa 2 miền Nam - Bắc.

Nhân sự kiện ấn tượng và ý nghĩa này, Nhà báo Vân Khánh đã có cuộc trao đổi với Thiếu tướng Trần Triều Dương, nguyên Giám đốc Sở Cảnh sát phòng cháy chữa cháy TP Hồ Chí Minh - từng là học viên của Trường Nội trú Cà Mau - Ninh Bình. Ngôi trường có bề dày lịch sử 15 năm hình thành, phát triển và hoàn thành sứ mệnh (1964-1979), đã đào tạo lực lượng nòng cốt phục vụ sự nghiệp kháng chiến và kiến thiết quê hương.

Thiếu tướng Trần Triều Dương. Ảnh: T.K

- Là cựu học sinh Trường Trung học kháng chiến Ninh Bình, Thiếu tướng có thể chia sẻ về quá trình hình thành và phát triển ngôi trường đậm tình Nam - Bắc một nhà, lại mang tính cấp bách phục vụ kịp thời cuộc kháng chiến chống Mỹ, vừa có tầm vóc chiến lược cho xây dựng và bảo vệ đất nước sau này?

Thiếu tướng Trần Triều Dương: Trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo và huy động toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tham gia chống Mỹ cứu nước. Cả miền Bắc là hậu phương lớn chi viện sức người, sức của để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Với khẩu hiệu “Vì miền Nam ruột thịt: Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, cùng các phong trào “Thanh niên 3 sẵn sàng, phụ nữ 3 đảm đang”, ngoài trực tiếp đưa cán bộ lãnh đạo cách mạng miền Nam, Đảng và Bác Hồ đã đưa bộ đội, vũ khí, hậu cần vào miền Nam trực tiếp chiến đấu. Đồng thời, chỉ đạo mỗi tỉnh miền Bắc kết nghĩa với các tỉnh miền Nam.

Để chuẩn bị đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất phục vụ cho công cuộc kháng chiến và kiến thiết miền Nam sau ngày giải phóng, có nhiều tỉnh miền Bắc đã kết nghĩa với các tỉnh miền Nam. Ví như tỉnh Thái Bình kết nghĩa với tỉnh Trà Vinh, “Cô Ba dũng sĩ quê ở Trà Vinh/Chị Hai năm tấn quê ở Thái Bình”; tỉnh Ninh Bình kết nghĩa với tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu. Trên cơ sở 2 tỉnh kết nghĩa, với tinh thần:

“Miền Nam yêu dấu ta ơi,

Xin hiến dâng cả trái tim chúng tôi đang sục sôi.

Miền Nam ơi, một tiếng của Người gọi.

Chúng tôi sẽ lên đường về quê hương miền Nam”.

(Lời bài hát "Miền Nam ơi chúng tôi đã sẵn sàng", sáng tác Lưu Cầu)

Với nghĩa tình thiêng liêng ấy, lãnh đạo tỉnh Ninh Bình đã phân công các cán bộ giáo dục, các thầy cô giáo vượt Trường Sơn với “vũ khí” là các bộ sách giáo khoa hệ 10 năm của miền Bắc xã hội chủ nghĩa đến tận cuối trời Tổ quốc. Vào năm 1964, Tỉnh uỷ Cà Mau - Bạc Liêu lập ra trường nội trú tập trung để đào tạo con em cán bộ cấp tỉnh, chuẩn bị bổ sung cho lực lượng cách mạng sau này.

Từ đó, Trường Nội trú Ninh Bình trở thành trung tâm đào tạo cán bộ cho tỉnh, cho Khu Tây Nam Bộ… Kết quả, trường đã đào tạo được 4 khoá, bắt đầu từ năm 1964 kéo dài đến năm 1979. Hầu hết học sinh của 4 khoá đều trưởng thành, đóng góp to lớn vào công cuộc kháng chiến và kiến thiết quê hương, trong đó có nhiều tướng lĩnh, sĩ quan cao cấp của quân đội, công an. Nhiều đồng chí là Uỷ viên Trung ương Đảng, là bí thư, chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố.

Học sinh trường Ninh Bình tham gia lao động cải hoạt.  Ảnh tư liệu

- Tiếng vọng thân thương của một thời hào hùng oanh liệt mà lãng mạn niềm tin chiến thắng và kỷ niệm sâu sắc về tình thầy trò, bè bạn, đồng chí, đồng bào vẫn như ngọn lửa âm ỉ trong ông, dù đã hơn nửa thế kỷ trôi qua. Riêng với ông - người cha đi tập kết, mẹ ở lại miền Nam hàng ngày đối mặt với quân thù có sức tác động như thế nào đến ý chí, hành động của mình trong học tập, công tác và chiến đấu, thưa Thiếu tướng?

Thiếu tướng Trần Triều Dương: Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, các thế hệ học sinh trường Ninh Bình từ khoá I đến khoá III theo thống kê chưa đầy đủ (vì khi chuyển trường, chuyển lớp các bạn đã ra bộ đội chiến đấu), số thống kê được, hy sinh và bị thương 77 người. Có những học sinh hy sinh rất anh dũng, oanh liệt.

Chính vì sự hy sinh, đóng góp cho sự nghiệp cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của các thế hệ thầy và trò trường Ninh Bình nên trường được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

Đó là do sự lãnh đạo tài tình của Đảng, của Bác Hồ, Tỉnh uỷ Ninh Bình, Cà Mau, Bạc Liêu đã đào tạo lực lượng cho trước mắt và lâu dài. Nhìn lại quá trình đào tạo, học tập, chiến đấu của thầy, trò trường Ninh Bình, chúng ta thấy giai đoạn khoá II là khoá chịu nhiều hy sinh, gian khổ và chiến tranh ác liệt nhất. Sau 2 đợt tổng tấn công của ta vào cơ quan đầu não, bản doanh quân đội địch ở các đô thị từ Trung ương đến địa phương tháng 1 và tháng 5/1968, ta thắng lợi về chiến lược, toàn diện chính trị, ngoại giao… nhưng tổn thất rất nặng nề về lực lượng, cơ sở cách mạng hợp pháp…, phải tổ chức lại lực lượng, chỉnh huấn, chỉnh quân.

Lợi dụng cơ hội này Mỹ - nguỵ tăng cường đánh phá vào vùng căn cứ, vùng giải phóng của ta. Ngày cũng như đêm, chúng cho máy bay trinh sát, máy bay ném bom, máy bay trực thăng… quần đảo, rà soát lại các khu vực vùng giải phóng của ta. Chúng cơ động bắn phá, ném bom, đổ quân càn quét, chà đi sát lại để tìm diệt lực lượng cách mạng.

Trong một trận đổ quân càn quét của địch, trực thăng đã phóng pháo làm cô giáo Bảy Tươi hy sinh tại chỗ, cô giáo Năm Bé, vừa là y tá bị thương rất nặng, cô giáo Út Thu cũng bị thương. Trong một trận đổ quân càn quét khác, địch đã bắn cô Thu Vân (dạy lớp tôi), thầy Ba Châu (chủ nhiệm lớp tôi), các bạn Phan Anh Tuấn, Phạm Trường Giang bị thương.

Những chuyện tôi kể ra đây chỉ phản ánh một phần gian khổ, hiểm nguy, hy sinh của thầy và trò trường Ninh Bình thời đó. Có lúc không có gạo, thầy trò phải đi đốn củi, đào đất, cấy mướn… để đổi gạo. Các thầy cô dạy chúng tôi phải biết giúp dân, biết dựa vào dân, biết hy sinh vì dân. Các thầy cô khoá II trường Ninh Bình nữ chỉ đếm trên đầu ngón tay. Tôi nhớ cô Tư Hiền (y sĩ), cô Năm Bé (y tá), cô Út Thu, cô Thu Vân, cô Bảy Tươi… Các cô quan tâm, chăm sóc học sinh như con em mình và chúng tôi cũng quấn quýt thầy cô như người thân trong nhà.

Trong thời gian học từ lớp 5, 6, 7 (cấp II hệ 10 năm), tôi phát hiện 2 người bạn hoàn cảnh rất giống mình, có mẹ công tác ở một cơ quan của tỉnh, cha đi tập kết theo Hiệp định Geneve. Đó là Phạm Khánh Bình, mẹ là dì Sáu Mỹ, công tác ở phụ nữ tỉnh; Nguyễn Hồng Nhuỵ, mẹ là dì Sáu Dung, công tác ở Ban Tuyên huấn tỉnh. Còn mẹ tôi công tác ở Hội Nông dân giải phóng tỉnh. Chúng tôi hoàn toàn chưa biết mặt cha, và các mối quan hệ chỉ qua mẹ nên thường gọi là cậu, dì.

Lúc đó, mỗi lần liên hoan văn nghệ, ai ngâm bài “Dưới luỹ tre” của Nhà thơ Nguyễn Bá, cả 3 chúng tôi có cảm xúc riêng khó tả. Cha mình như thế nào? Gặp cha sẽ như thế nào? Rồi từ khi cô Bảy Tươi hy sinh, mỗi lần đọc hoặc nghe ai đọc lại bài “Dưới luỹ tre” tôi bùi ngùi xúc động, không thể cầm được nước mắt.

Đầu năm 1971, sau khi nhận giấy chứng nhận tốt nghiệp cấp II, chúng tôi tung cánh bay khắp nơi, người về Tỉnh đội, người về Quân khu, người học báo chí, người học điện đài, người học y, dược… Bằng cả đáy lòng mình, tôi xin chân thành cảm ơn tất cả thầy, cô giáo và cán bộ, công nhân viên của trường Ninh Bình qua các thời kỳ. Nhất là các thầy cô đã vượt Trường Sơn, ôm bộ sách giáo khoa hệ 10 năm về cuối trời Nam gieo hạt giống đỏ!

- Xin cảm ơn Thiếu tướng!

 

Vân Khánh thực hiện

 

Trung đoàn Đặc công Đ10 kỷ niệm 80 năm thành lập

Ngày 9/8, Trung đoàn Đặc công Đ10 Anh hùng long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập, khẳng định truyền thống vẻ vang và tiếp nối ngọn lửa nhiệt huyết cách mạng cho thế hệ sau.

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.