ĐT: 0939.923988
Thứ năm, 16-5-24 13:11:34
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

200 ngày đêm lịch sử ở Cà Mau

Báo Cà Mau Với chiến thắng Ðiện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” năm 1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào tạm thời do quân đội Pháp và chính quyền tay sai quản lý, tiến tới cuộc tổng tuyển cử được ấn định vào năm 1956 để thống nhất đất nước. Ðây cũng là hoàn cảnh mà lực lượng kháng chiến cách mạng ở miền Nam phải tập kết ra Bắc.

Lệnh ngừng bắn ở Nam Bộ bắt đầu từ 7 giờ sáng ngày 11/6/1954. Cà Mau được lựa chọn làm khu vực tập kết tạm thời 200 ngày. Ðến ngày 27/7/1954, quân đội liên hiệp Pháp cùng các cơ quan hành chính cai trị đã rút khỏi thị trấn Cà Mau, Tắc Vân để ta tiếp quản. Lực lượng bộ đội, cán bộ, con em của ta ở miền Tây và một phần của Nam Bộ cùng gia đình thân quyến tập trung về Cà Mau làm các công tác chuẩn bị, chia tay để tập kết ra Bắc trong không khí rộn ràng như ngày hội.

Cửa sông Ông Ðốc (nay là thị trấn Sông Ðốc, huyện Trần Văn Thời) là bến tập kết lớn của cán bộ, chiến sĩ, con em miền Nam để xuống tàu ra Bắc. Trong dịp kỷ niệm 50 năm sự kiện tập kết ra Bắc tại Cà Mau (năm 2004), đồng chí Võ Thanh Bình, Bí thư Tỉnh uỷ Cà Mau thời điểm đó, đánh giá: “200 ngày, tuy ngắn ngủi nhưng đó là khoảng thời gian vô cùng quý giá đối với Ðảng bộ, quân và dân Cà Mau, thời gian mà Nhân dân được sống những ngày thực sự tự do, hạnh phúc trong không khí hoà bình, vui tươi, phấn khởi sau 9 năm trường kỳ kháng chiến”.

Trong 200 ngày tập kết, Ðảng bộ, quân và dân tỉnh Cà Mau đảm nhận trọng trách bộn bề nhưng cũng hết sức vẻ vang để hoàn thành nhiệm vụ của Ðảng, của Bác Hồ và Trung ương Cục miền Nam tin cậy giao phó. Ðể phát huy thắng lợi, thể hiện khí thế cách mạng, ngày 26/8/1954, gần 2 vạn đồng bào từ khắp nơi đổ về thị trấn Cà Mau trương băng cờ, đội ngũ chỉnh tề tuần hành tràn ngập các tuyến đường hướng về sân vận động dự mít tinh chiến thắng: “Hoan hô hoà bình lập lại tại Ðông Dương!”; “Ðảng Lao động Việt Nam muôn năm!”; “Hồ Chủ tịch muôn năm!”; “Nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, hoà bình muôn năm!”...

Ðịa điểm tập kết ra Bắc năm 1954 tại Sông Ðốc thuộc Khóm 1, thị trấn Sông Ðốc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau, cách cửa sông Ông Ðốc khoảng 2 km. (Ảnh tư liệu)

Trong 200 ngày, Cà Mau vừa tiếp quản khu vực tập kết mà đối phương bàn giao, đồng thời tổ chức tiếp đón chu đáo các lực lượng tập kết và thân quyến đưa tiễn; tập trung xây dựng lực lượng cách mạng tại chỗ chuẩn bị cho lâu dài, khẩn trương xây dựng vùng giải phóng cũ thành căn cứ cách mạng, bồi dưỡng sức dân, củng cố hậu phương vững chắc; và đặc biệt là nhiệm vụ xây dựng vùng tập kết thành hình mẫu về chính quyền cách mạng.

Chỉ trong 200 ngày, ta đã cấp trên 12.000 ha đất cho nông dân; xây dựng thêm 20 trường học, trên 75% dân được xoá mù chữ; những người bệnh tật được chữa trị, phát thuốc; người đói nghèo được cấp phát lương thực, thực phẩm... Nhân dân được tự do đi lại, mở mang việc làm ăn, buôn bán; các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao nở rộ, nâng cao đời sống tinh thần cho đồng bào. Ðồng chí Võ Văn Kiệt, Bí thư Tỉnh uỷ Bạc Liêu (nay là 2 tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu) khi ấy, đã hào sảng nhận định: “Người ta gọi vàm sông Ông Ðốc là Thủ đô của Nam Bộ, nhộn nhịp lắm, đông vui lắm”. Còn cố Tổng bí thư Lê Duẩn thì dự đoán sắc bén: “Mảnh đất mà chính quyền cách mạng giao cho hôm nay là lá bùa hộ mệnh cho cách mạng miền Nam sau này”.

Trong chuyến tàu cuối rời vàm sông Ông Ðốc để tập kết ra Bắc ngày 8/2/1955, diễn ra nhiều sự kiện vừa xúc động, vừa mang tính lịch sử. Má Lê Thị Sảnh ở Thới Bình gởi một nắm đất Cà Mau có cây vú sữa đựng trong bình tích uống trà đến Bác Hồ. Cây vú sữa miền Nam từ đó trở thành biểu tượng thiêng liêng cho lòng kính yêu vô hạn của miền Nam với Bác. Và cũng trong chuyến tàu cuối mang tên Kilinski ấy, mọi người đều thấy đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ có mặt, nhưng đó chỉ để đánh lạc hướng quân thù. Ðồng chí Võ Văn Kiệt, Bí thư Tỉnh uỷ Bạc Liêu, được trao nhiệm vụ bí mật, đón “anh Ba” ở lại với đồng bào, với cách mạng miền Nam. Ngay sau đó, tại Cà Mau, đồng chí Lê Duẩn đã chấp bút soạn thảo những dòng đầu tiên “Bản Ðề cương cách mạng miền Nam”, là tiền đề để Trung ương Ðảng ban hành Nghị quyết 15 xác định rõ con đường tiến lên của cách mạng miền Nam.

Một chứng nhân của sự kiện 200 ngày tập kết tại Cà Mau, ông Nguyễn Phước Thẩm, nay đã 94 tuổi, hồi nhớ: “Thời điểm đó “đi” hay “ở” đều là nhiệm vụ, đều là vinh dự. Tôi là thành viên của Ðoàn Tuyên truyền lưu động do Tỉnh uỷ thành lập để thực hiện nhiệm vụ giải thích, tuyên truyền Hiệp định Giơnevơ cho đồng bào. Phải nói không khí của 200 ngày tập kết rất sôi nổi, tràn đầy tinh thần và nhiệt huyết cách mạng của Ðảng bộ, quân và dân Cà Mau. Nhân dân vô cùng phấn khởi, ủng hộ chính quyền cách mạng. Tôi và vợ có tên “đi”, nhưng sau đó thì biết được tổ chức phân công ở lại”.

Trong một lần được trò chuyện với Nhà báo Trần Thanh Phương, người con của Ðường Cày, Phú Tân, Cà Mau, nguyên Tổng biên tập Báo Ðại đoàn kết, nay đã tạ thế, ông nhắc nhớ về lúc xuống tàu tập kết ra Bắc khi còn là một thiếu niên: “Không khí vừa vui, vừa bùi ngùi. Ai cũng giơ 2 ngón tay lên hẹn 2 năm sẽ sum họp, đâu ngờ hơn 20 năm sau tôi mới được trở về quê hương Cà Mau. Miền Nam của mình, Cà Mau của mình kiên cường lắm, anh dũng lắm, nguyện lòng theo sự nghiệp cách mạng mà Ðảng, Bác Hồ lựa chọn để cùng với đất nước đi đến ngày toàn thắng”.

Nhà thơ Nguyễn Bá đã nhận định: “Cuộc tập kết của ta ở cửa sông Ông Ðốc nghiễm nhiên là cột mốc lịch sử..., chúng ta có thể tìm ra sức mạnh và niềm tin về một Cà Mau trong vai trò chung (trong sự nghiệp cách mạng)”.

Ðã 70 năm trôi qua nhưng hào khí cách mạng của sự kiện 200 ngày tập kết ra Bắc vẫn vẹn nguyên ở đôi bờ sông Ông Ðốc, vang vọng mãi trong hồn đất, tình người và trong những trang sử hào hùng, vẻ vang của Cà Mau./.

 

Phạm Quốc Rin

 

Vinh quang bất tử

Mỗi câu chuyện từ những nhân chứng đi ra từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đều là những trang sử sống quý giá, sinh động, mà may mắn thay, hậu thế chúng tôi, những người không biết đến bom đạn chiến tranh còn có thể nghiêng mình chiêm ngưỡng.

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ - SỨC MẠNH VIỆT NAM, TẦM VÓC THỜI ĐẠI - Phần II: Diễn biến, kết quả của chiến dịch

Sau khi công tác chuẩn bị hoàn thành, ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng tiến công Điện Biên Phủ. Chiến dịch diễn ra thành ba đợt trong gần hai tháng. Với địa hình hiểm trở, việc kéo pháo vào tập trung tại trận địa đã vô cùng khó khăn.Tuy nhiên, với tinh thần quả cảm, không quản ngại gian khổ, hy sinh, quân và dân ta đã tìm mọi cách vượt qua thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ - SỨC MẠNH VIỆT NAM, TẦM VÓC THỜI ĐẠI - Phần III: Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của chiến dịch Điện Biên Phủ

Chiến thắng Điện Biên Phủ của dân tộc ta đã chứng minh một chân lý của thời đại: các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó nhất định thắng lợi.

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ - SỨC MẠNH VIỆT NAM, TẦM VÓC THỜI ĐẠI - Phần I: Bối cảnh lịch sử, âm mưu của thực dân Pháp và sự chỉ đạo chiến lược của ta

70 năm đã trôi qua, Chiến dịch Điện Biên Phủ (07.5.1954 - 07.5.2024) là chiến thắng vĩ đại đã ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một mốc son rực sáng nhất trong thế kỷ XX. Đây là chiến thắng của chủ nghĩa yêu nước, ý chí bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử... Ý nghĩa, tầm vóc, những bài học lịch sử vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bản anh hùng ca bất diệt của thời đại Hồ Chí Minh

Đúng ngày này 70 năm trước, bộ đội ta đã nổ những phát súng đầu tiên mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, tiến công tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của thực dân Pháp mà ngay cả trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ II cũng không có tập đoàn cứ điểm nào mạnh bằng. Trải qua 56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non (thơ Tố Hữu), bộ đội Việt Nam anh hùng đã vượt lên bao mưa bom, bão đạn và cắm lá cờ Quyết chiến, Quyết thắng của Bác Hồ trao trên nóc hầm Đờ Cát, vào giữa tim con nhím Điện Biên Phủ, kết liễu số phận của nó.

Ðong đầy ký ức Ðiện Biên

Chiến thắng Ðiện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” năm 1954 là mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. 70 năm trôi qua, những người lính Bộ đội Cụ Hồ, thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến từng tham gia Chiến dịch Ðiện Biên Phủ luôn tự hào về những năm tháng gian khổ nhưng đầy oanh liệt ấy.

Chiến thắng Điện Biên Phủ, thắng lợi vĩ đại của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc

Cách đây vừa tròn 70 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã tiến hành trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, làm nên chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đây là thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam, minh chứng hùng hồn cho sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh.

Những năm tháng mãi trong tim...

Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, với quyết định mang tầm chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Ðảng, những chuyến tàu năm 1954 đã đưa nhiều người con miền Nam tập kết ra Bắc tiếp tục học tập, nhằm đào tạo lực lượng cán bộ cho sự nghiệp cách mạng lâu dài của Ðảng. Trong số đó, có những người con Cà Mau. Ðến nay, dù đã 7 thập kỷ trôi qua, nhưng họ vẫn nhớ như in cái ngày lịch sử ấy.

Vẹn nguyên giá trị ngày toàn thắng

49 năm, ngót nửa thế kỷ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, với tầm vóc lịch sử đã được đúc kết: “Thắng lợi của Nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta, một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc” (Báo cáo chính trị tại Ðại hội Ðại biểu toàn quốc lần thứ IV của Ðảng).

Ðội quân kiến vàng

Thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước, một số địa phương ở miền Nam, như Bến Tre, sáng tạo cách đánh giặc bằng hầm chông kết hợp ong vò vẽ, làm cho kẻ địch bao phen bạt vía... Ở Cà Mau, lại có loại vũ khí lợi hại chẳng kém ong vò vẽ, khiến quân nguỵ bị một phen điếng hồn, bỏ chạy, đó là “đội quân kiến vàng”, không phải nuôi và cũng không huấn luyện gì.