ĐT: 0939.923988
Thứ hai, 2-6-25 21:47:03
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

200 ngày đêm lịch sử ở Cà Mau

Báo Cà Mau Với chiến thắng Ðiện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” năm 1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào tạm thời do quân đội Pháp và chính quyền tay sai quản lý, tiến tới cuộc tổng tuyển cử được ấn định vào năm 1956 để thống nhất đất nước. Ðây cũng là hoàn cảnh mà lực lượng kháng chiến cách mạng ở miền Nam phải tập kết ra Bắc.

Lệnh ngừng bắn ở Nam Bộ bắt đầu từ 7 giờ sáng ngày 11/6/1954. Cà Mau được lựa chọn làm khu vực tập kết tạm thời 200 ngày. Ðến ngày 27/7/1954, quân đội liên hiệp Pháp cùng các cơ quan hành chính cai trị đã rút khỏi thị trấn Cà Mau, Tắc Vân để ta tiếp quản. Lực lượng bộ đội, cán bộ, con em của ta ở miền Tây và một phần của Nam Bộ cùng gia đình thân quyến tập trung về Cà Mau làm các công tác chuẩn bị, chia tay để tập kết ra Bắc trong không khí rộn ràng như ngày hội.

Cửa sông Ông Ðốc (nay là thị trấn Sông Ðốc, huyện Trần Văn Thời) là bến tập kết lớn của cán bộ, chiến sĩ, con em miền Nam để xuống tàu ra Bắc. Trong dịp kỷ niệm 50 năm sự kiện tập kết ra Bắc tại Cà Mau (năm 2004), đồng chí Võ Thanh Bình, Bí thư Tỉnh uỷ Cà Mau thời điểm đó, đánh giá: “200 ngày, tuy ngắn ngủi nhưng đó là khoảng thời gian vô cùng quý giá đối với Ðảng bộ, quân và dân Cà Mau, thời gian mà Nhân dân được sống những ngày thực sự tự do, hạnh phúc trong không khí hoà bình, vui tươi, phấn khởi sau 9 năm trường kỳ kháng chiến”.

Trong 200 ngày tập kết, Ðảng bộ, quân và dân tỉnh Cà Mau đảm nhận trọng trách bộn bề nhưng cũng hết sức vẻ vang để hoàn thành nhiệm vụ của Ðảng, của Bác Hồ và Trung ương Cục miền Nam tin cậy giao phó. Ðể phát huy thắng lợi, thể hiện khí thế cách mạng, ngày 26/8/1954, gần 2 vạn đồng bào từ khắp nơi đổ về thị trấn Cà Mau trương băng cờ, đội ngũ chỉnh tề tuần hành tràn ngập các tuyến đường hướng về sân vận động dự mít tinh chiến thắng: “Hoan hô hoà bình lập lại tại Ðông Dương!”; “Ðảng Lao động Việt Nam muôn năm!”; “Hồ Chủ tịch muôn năm!”; “Nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, hoà bình muôn năm!”...

Ðịa điểm tập kết ra Bắc năm 1954 tại Sông Ðốc thuộc Khóm 1, thị trấn Sông Ðốc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau, cách cửa sông Ông Ðốc khoảng 2 km. (Ảnh tư liệu)

Trong 200 ngày, Cà Mau vừa tiếp quản khu vực tập kết mà đối phương bàn giao, đồng thời tổ chức tiếp đón chu đáo các lực lượng tập kết và thân quyến đưa tiễn; tập trung xây dựng lực lượng cách mạng tại chỗ chuẩn bị cho lâu dài, khẩn trương xây dựng vùng giải phóng cũ thành căn cứ cách mạng, bồi dưỡng sức dân, củng cố hậu phương vững chắc; và đặc biệt là nhiệm vụ xây dựng vùng tập kết thành hình mẫu về chính quyền cách mạng.

Chỉ trong 200 ngày, ta đã cấp trên 12.000 ha đất cho nông dân; xây dựng thêm 20 trường học, trên 75% dân được xoá mù chữ; những người bệnh tật được chữa trị, phát thuốc; người đói nghèo được cấp phát lương thực, thực phẩm... Nhân dân được tự do đi lại, mở mang việc làm ăn, buôn bán; các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao nở rộ, nâng cao đời sống tinh thần cho đồng bào. Ðồng chí Võ Văn Kiệt, Bí thư Tỉnh uỷ Bạc Liêu (nay là 2 tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu) khi ấy, đã hào sảng nhận định: “Người ta gọi vàm sông Ông Ðốc là Thủ đô của Nam Bộ, nhộn nhịp lắm, đông vui lắm”. Còn cố Tổng bí thư Lê Duẩn thì dự đoán sắc bén: “Mảnh đất mà chính quyền cách mạng giao cho hôm nay là lá bùa hộ mệnh cho cách mạng miền Nam sau này”.

Trong chuyến tàu cuối rời vàm sông Ông Ðốc để tập kết ra Bắc ngày 8/2/1955, diễn ra nhiều sự kiện vừa xúc động, vừa mang tính lịch sử. Má Lê Thị Sảnh ở Thới Bình gởi một nắm đất Cà Mau có cây vú sữa đựng trong bình tích uống trà đến Bác Hồ. Cây vú sữa miền Nam từ đó trở thành biểu tượng thiêng liêng cho lòng kính yêu vô hạn của miền Nam với Bác. Và cũng trong chuyến tàu cuối mang tên Kilinski ấy, mọi người đều thấy đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ có mặt, nhưng đó chỉ để đánh lạc hướng quân thù. Ðồng chí Võ Văn Kiệt, Bí thư Tỉnh uỷ Bạc Liêu, được trao nhiệm vụ bí mật, đón “anh Ba” ở lại với đồng bào, với cách mạng miền Nam. Ngay sau đó, tại Cà Mau, đồng chí Lê Duẩn đã chấp bút soạn thảo những dòng đầu tiên “Bản Ðề cương cách mạng miền Nam”, là tiền đề để Trung ương Ðảng ban hành Nghị quyết 15 xác định rõ con đường tiến lên của cách mạng miền Nam.

Một chứng nhân của sự kiện 200 ngày tập kết tại Cà Mau, ông Nguyễn Phước Thẩm, nay đã 94 tuổi, hồi nhớ: “Thời điểm đó “đi” hay “ở” đều là nhiệm vụ, đều là vinh dự. Tôi là thành viên của Ðoàn Tuyên truyền lưu động do Tỉnh uỷ thành lập để thực hiện nhiệm vụ giải thích, tuyên truyền Hiệp định Giơnevơ cho đồng bào. Phải nói không khí của 200 ngày tập kết rất sôi nổi, tràn đầy tinh thần và nhiệt huyết cách mạng của Ðảng bộ, quân và dân Cà Mau. Nhân dân vô cùng phấn khởi, ủng hộ chính quyền cách mạng. Tôi và vợ có tên “đi”, nhưng sau đó thì biết được tổ chức phân công ở lại”.

Trong một lần được trò chuyện với Nhà báo Trần Thanh Phương, người con của Ðường Cày, Phú Tân, Cà Mau, nguyên Tổng biên tập Báo Ðại đoàn kết, nay đã tạ thế, ông nhắc nhớ về lúc xuống tàu tập kết ra Bắc khi còn là một thiếu niên: “Không khí vừa vui, vừa bùi ngùi. Ai cũng giơ 2 ngón tay lên hẹn 2 năm sẽ sum họp, đâu ngờ hơn 20 năm sau tôi mới được trở về quê hương Cà Mau. Miền Nam của mình, Cà Mau của mình kiên cường lắm, anh dũng lắm, nguyện lòng theo sự nghiệp cách mạng mà Ðảng, Bác Hồ lựa chọn để cùng với đất nước đi đến ngày toàn thắng”.

Nhà thơ Nguyễn Bá đã nhận định: “Cuộc tập kết của ta ở cửa sông Ông Ðốc nghiễm nhiên là cột mốc lịch sử..., chúng ta có thể tìm ra sức mạnh và niềm tin về một Cà Mau trong vai trò chung (trong sự nghiệp cách mạng)”.

Ðã 70 năm trôi qua nhưng hào khí cách mạng của sự kiện 200 ngày tập kết ra Bắc vẫn vẹn nguyên ở đôi bờ sông Ông Ðốc, vang vọng mãi trong hồn đất, tình người và trong những trang sử hào hùng, vẻ vang của Cà Mau./.

 

Phạm Quốc Rin

 

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.