ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 14-6-25 18:51:08
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975-30/4/2025)

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Báo Cà Mau Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tranh: MINH TẤN

Tranh: MINH TẤN

Với cương vị là Bí thư Huyện uỷ, tôi cùng với tập thể Ban Thường vụ Huyện uỷ triệu tập cuộc họp khẩn Huyện uỷ mở rộng, bàn kế hoạch tấn công chi khu Rạch Ráng với mọi lực lượng địa phương hiện có, cuộc họp diễn ra ở Cơi Nhì, xã Trần Hợi. Trải qua những năm tháng khó khăn ác liệt, mới sống đó rồi cũng chết đó, tôi chưa bao giờ chứng kiến một cuộc họp hừng hực khí thế như hôm nay. Mọi người đều nêu phương án tấn công tốt nhất, hạn chế thương vong đến thấp nhất và kết thúc với thời gian sớm nhất.

Cuộc họp đã thống nhất thành lập Ban chỉ huy thống nhất gồm 8 đồng chí, tôi làm trưởng ban, cùng các đồng chí: Lê Hồng Thương (Hai Mương), Phó bí thư Thường trực Huyện uỷ; Nguyễn Thanh Vân (Sáu Tài), Huyện đội trưởng; Mai Hữu Chiến (Năm Chiến), Trưởng ban Binh vận huyện; Lê Văn Trọng (Năm Trực), Trưởng ban An ninh huyện; Nguyễn Văn Biên, Huyện đội phó; Lê Minh Hiền, Bí thư Huyện đoàn và một số đồng chí khác. Ðồng chí Trần Hữu Vịnh (Hai Thống), Tỉnh uỷ viên được Thường vụ Tỉnh uỷ phân công chỉ đạo huyện Trần Văn Thời. Bữa cơm chia tay đạm bạc mà rất vui, sau đó ai về nhiệm vụ nấy như kế hoạch.

Về lực lượng ta, lúc này mỗi xã có một đại đội, huyện có 2 tiểu đoàn trên 400 quân, được trang bị khá mạnh, gồm cả đại liên, B40, AK, M79... Còn có loại vũ khí lợi hại khác mà chỉ có huyện Trần Văn Thời mới có, đó là 1.500 trái đạn 105 mm vừa thu được ở căn cứ Bà Thầy. Vậy mà, khi báo cáo về tỉnh, huyện chỉ khai có 800 quả, tỉnh rút hết 400. Như vậy, với 400 quả còn lại, cộng với số của “để dành”, huyện có trong tay 1.100 quả. Mỗi trái đạn 105 mm được cải tiến nằm trên bệ phóng là nỗi kinh hoàng của bọn đồn trú.

Phía địch, hiện có trên 400 quân, gồm 1 tiểu đoàn bảo an, hơn 300 quân, do tên đại uý Thạch Văn Nghiệp làm tiểu đoàn trưởng, đại uý Lê Hữu Hạnh phụ trách cảnh sát, đại uý Hoà, quận phó. Ðặc biệt, tên thiếu tá Cần vừa được thay thế thiếu tá Trường làm quận trưởng đang trong thòng lọng chờ chết.

Cùng lúc này, theo mệnh lệnh của tỉnh, huyện Trần Văn Thời phải đưa 1 tiểu đoàn cho tỉnh để chuẩn bị giải phóng tỉnh lỵ An Xuyên, mục tiêu được giao là đánh chiếm khu Cao Thắng. Huyện cử đồng chí Ðoàn Văn Vĩnh, Phó bí thư, Chính trị viên Huyện đội gánh vác nhiệm vụ này. Như vậy, việc lực lượng tấn công chi khu Rạch Ráng đã bị rút bớt, Huyện uỷ Trần Văn Thời vẫn giữ quyết tâm, rút du kích các xã thành lập tiểu đoàn mới, bố trí lại lực lượng, sẵn sàng cho cuộc quyết chiến.

Trong tình thế bị bao vây, cô lập, nhưng bọn đầu sỏ vẫn ngoan cố, mơ mộng ở một phép màu nào đó để kéo dài sự sống, bản chất tàn bạo vẫn không thay đổi, ngày đêm tìm cách bung ra để phá thế bị bao vây. Ở hướng Kinh Cũ, bọn chúng bất ngờ cho một mũi thọc ra, làm 3 du kích ta hy sinh. Có dấu hiệu cho thấy, lực lượng ta chủ quan, cho rằng địch không dám liều lĩnh, chỉ chờ chết. Ban chỉ huy thống nhất lại họp, uốn nắn tư tưởng, chỉ rõ bản chất ngoan cố của địch, còn một ngày là chúng còn gây nợ máu với Nhân dân.

Ðến ngày 26/4/1975, các quân đoàn chủ lực của ta đã áp sát Sài Gòn. Trong tỉnh, các hướng tấn công ở huyện Thới Bình, Cái Nước, Ðầm Dơi, Châu Thành giành thắng lợi giòn giã, lực lượng ta đã đứng chân sát tỉnh lỵ An Xuyên. Ban chỉ huy thống nhất chuyển 500 lực lượng chuẩn bị cho cuộc đấu tranh trực diện ở chi khu Rạch Ráng, đóng từ ngã tư Kiểu Mẩu ra kinh Hội Ðồng Thành để ra Cà Mau, thành lực lượng hậu cần, tiếp tế cho lực lượng bao vây Rạch Ráng do đồng chí Năm Sông và Tám Mỏng chỉ huy. Mũi tiến công binh vận do anh Mai Hữu Chiến phụ trách đã tung lực lượng thân nhân binh lính, cảnh sát, tề nguỵ ra chi khu vận động rã ngũ, trở về với gia đình, với ruộng vườn. Họ nói công khai, thẳng thắn, không sợ bị địch bắt bớ, đàn áp, chứng tỏ bọn địch đã dao động, tìm lối thoát.

Ngày 29/4/1975, được lệnh của quân khu, cuộc tổng tiến công vào tỉnh lỵ An Xuyên bắt đầu. Bọn địch ở chi khu Rạch Ráng không còn nhận được sự hà hơi từ những chiếc trực thăng. Ba hướng tiến công của ta từ Tham Trơi, Kinh Cũ và Rạch Lăng đã sẵn sàng. Hàng ngàn quần chúng tập trung chuẩn bị tràn ra chi khu khi có lệnh. Một phong trào cách mạng sôi sục chưa từng có, giờ khắc giải phóng huyện nhà đã rất gần. Ðồng chí Trần Minh Niên (Chín Niên) phụ trách truyền tin của Huyện uỷ có giọng nói khoẻ, diễn đạt mạnh, đã dùng máy PRC25 liên lạc với tên thiếu tá quận trưởng Cần, giải thích chính sách của Chính phủ cách mạng lâm thời, ra lệnh cho chúng đầu hàng. Cứ một, hai tiếng đồng hồ, ta lại giục tên Cần một lần.

Tại gần vàm kinh Phát Thạnh, cách chi khu Rạch Ráng chừng hơn 1 km, ban chỉ huy thống nhất khẳng định, địch chỉ có con đường buông súng đầu hàng, khả năng phá vòng vây bỏ chạy không còn vì tại tỉnh lỵ cũng đang bị tấn công, địch đã hết đường chi viện. 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, Tổng thống Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá tổng tham mưu trưởng cũng ra lời kêu gọi tất cả các lực lượng vũ trang giải giáp, buông vũ khí.

1 giờ đêm, ngày 1/5/1975, tên thiếu tá quận trưởng Cần vừa nhận chức 10 ngày đã lên máy PRC25 liên lạc với ta, chấp nhận đầu hàng. Những người có mặt ở ban chỉ huy, các cán bộ Văn phòng Huyện uỷ mừng không nói nên lời. Chúng tôi thông báo cho các mũi chuẩn bị và ra lệnh cho địch tập trung vũ khí để một chỗ; binh lính, cảnh sát, tề nguỵ tập trung một chỗ chờ ta tiếp quản. Trong khi đó, điện báo cáo và xin ý kiến với bộ chỉ huy tiền phương, các anh cho rằng nên chờ sáng.

5 giờ sáng 1/5/1975, đồng chí Lê Tuấn (Năm Song), Phó ban An ninh huyện và một số đồng chí khác đã đi thẳng vào chi khu Rạch Ráng. Ðến nơi, gặp tên thiếu tá quận trưởng Cần và thấy bọn chúng xếp hàng thứ tự, vũ khí đã chất đống trước trụ sở cảnh sát. Bằng cách tiếp cận nhanh nhạy, các mũi tiến công của ta đã tràn vào chi khu, làm chủ tình hình, cờ Chính phủ cách mạng lâm thời tung bay trước dinh quận và nhiều nơi khác. 446 tên nguỵ quân, nguỵ quyền đã được áp tải về Kinh Cũ, địa điểm ta đã chuẩn bị trước. Ở một góc phòng của cơ quan cảnh sát, địch còn tranh thủ đốt giấy tờ, ta phải xông vào dập tắt. Ðúng 6 giờ ngày 1/5/1975, chi khu Rạch Ráng, cứ điểm cuối cùng của địch tại huyện Trần Văn Thời đã được giải phóng, Nhân dân ở các hướng cũng lần lượt tràn vào, niềm vui đến bất tận.

50 năm, hồi tưởng lại giờ khắc lịch sử hào hùng đó, tôi không sao quên được. Chỉ một mảnh đất mang cái tên rất đặc trưng là U Minh lại bị kẻ thù 11 lần dùng B52 rải thảm, 27 lần rải chất độc hoá học... Ngoài chi khu Rạch Ráng, còn có 3 căn cứ quân sự: Cầu Chữ Y (Trần Hợi), Nổng Cạn (Khánh Lâm), Bà Thầy (Nguyễn Phích), một đặc khu Khai Quang, 2 giang thuyền, thuỷ quân lục chiến, hạm đội nhỏ trên sông, pháo hạm ngoài biển và 64 vị trí, 72 đồn bót khác. Từ năm 1970-1972 với cái gọi là Chiến dịch “Nhổ cỏ U Minh”, các sư đoàn 21 và sư đoàn 9 nguỵ đã đổ quân càn quét, chà đi xát lại, đồng bào và cán bộ, chiến sĩ đã chịu đựng, đương đầu và chiến đấu với khí phách anh hùng.

Chiến tranh là chết chóc, chia ly, nhà tan cửa nát, nhưng chiến tranh cũng là nơi bộc lộ chân gốc rạch ròi ta - địch, là nơi tôi luyện lòng yêu nước, sự dũng cảm hy sinh vô bờ bến của mỗi con người. Ngoài lực lượng vũ trang thì mũi đấu tranh trực diện và binh vận đã để lại biết bao tấm gương đặc biệt xuất sắc, chỉ thiếu trên ngực áo họ những tấm huân chương lấp lánh hào quang. Tôi ngàn lần tri ân những đóng góp, hy sinh thầm lặng của Nhân dân để có hoà bình, độc lập, thống nhất như hôm nay./.

 

Cao Kim Dân

Nguyên Bí thư Huyện uỷ Trần Văn Thời

 

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.