Thứ bảy, 13-12-25 10:29:55
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Bác sĩ Trần Duy Hưng: Một trí thức hết lòng vì đất nước

Báo Cà Mau Bác sĩ Trần Duy Hưng sinh ngày 16/1/1912, tại phố Hàng Bông Thợ Nhuộm; quê nội tại thôn Hoè Thị, xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội, trong một gia đình trung lưu. Ông học cùng thời với các bác sĩ: Tôn Thất Tùng, Ðặng Văn Ngữ…

Bác sĩ Trần Duy Hưng sinh ngày 16/1/1912, tại phố Hàng Bông Thợ Nhuộm; quê nội tại thôn Hoè Thị, xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội, trong một gia đình trung lưu. Ông học cùng thời với các bác sĩ: Tôn Thất Tùng, Ðặng Văn Ngữ…

30 tuổi, được người em gái - bà Trần Thế Mỹ - trợ giúp, Bác sĩ Trần Duy Hưng  mở một bệnh viện ở phố Thợ Nhuộm, Hà Nội. Lúc bấy giờ, ông đã nổi tiếng là một bác sĩ đa khoa giỏi và càng nổi tiếng hơn vì đã chữa bệnh cho người nghèo không lấy tiền.

Trước ngày tổng khởi nghĩa giành chính quyền năm 1945, bệnh viện của ông là cơ sở bí mật của cách mạng. Khi ấy, ông tham gia tích cực các phong trào xã hội và có uy tín lớn trong giới thanh niên, nhân sĩ, trí thức thời đó.

Bác sĩ Trần Duy Hưng (người đứng trên xe) vẫy chào Nhân dân trong ngày giải phóng thủ đô 10/10/1954.  Ảnh tư liệu

Khoảng một tuần sau ngày đọc Tuyên ngôn Ðộc Lập 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Ðình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm nhà riêng Bác sĩ Trần Duy Hưng và đề nghị ông làm Thị trưởng Hà Nội. Trước vinh dự và trọng trách lớn lao đó, ông xúc động cảm ơn Hồ Chủ tịch nhưng đề nghị Bác chọn người khác xứng đáng hơn với lý do mình chỉ biết khám, chữa bệnh, không quen làm lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh ân cần động viên: "Ðiều quan trọng là chú có lòng yêu nước, có các đoàn thể và đồng chí giúp đỡ, lo gì không hoàn thành nhiệm vụ".

Tháng 10/1945, ông gia nhập Ðảng Cộng sản Việt Nam.

Trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, Bác sĩ Trần Duy Hưng được cử làm Chủ tịch Uỷ ban Hành chánh Hà Nội, cùng với tập thể Thành uỷ, Uỷ ban Hành chánh tập hợp được các tầng lớp Nhân dân dưới ngọn cờ của chính quyền cách mạng tiến hành cuộc chiến chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm thời đó.

Sau khi thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội, ông theo Chính phủ lên Chiến khu Việt Bắc, được cử làm Thứ trưởng Bộ Nội vụ (tháng 4/1947 đến 1954) và tháng 6/1954 làm Thứ trưởng Bộ Y tế.

Hoà bình được lập lại, ngày 10/10/1954, ông dẫn đầu đại quân tiến vào tiếp quản thủ đô, với tư cách là Phó Chủ tịch Quân chính Hà Nội. Sau đó, ông được Ðảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, một lần nữa, cử làm Chủ tịch Uỷ ban Hành chánh (sau này là UBND) TP Hà Nội. Ông đảm nhiệm trọng trách này liên tục 23 năm cho đến khi về hưu vào năm 1977. Ông còn là đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ khoá 1 đến khoá 6. Là một trí thức cách mạng, một người mẫu mực, đức độ, nhân ái, suốt đời sống vì mọi người, ông đã có nhiều cống hiến cho sự phồn vinh của thủ đô, đất nước và đã để lại nhiều dấu ấn khó quên.

Ông vinh dự và may mắn được nhiều năm làm việc bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông là người có tác phong gần gũi với dân, thương yêu dân và luôn được dân tin yêu.

Những ngày thủ đô mới giải phóng, công việc rất bộn bề, ông luôn sâu sát cơ sở từ các nhà máy, các công trường… đến các trường học, các đơn vị quân đội. Nhiều đêm, một mình ông đi kiểm tra các điểm canh đê, đề phòng nước lũ lên. Là người đi đầu trong các phong trào, ông đã có công dẫn dắt thành phố đạt năng suất lúa cao nhất miền Bắc.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ông luôn luôn có mặt, trực tiếp động viên hàng ngàn con em Hà Nội lên đường chi viện cho chiến trường miền Nam. Tháng 12/1972, máy bay B52 của đế quốc Mỹ đánh phá ác liệt Hà Nội. Nhiều trường học, bệnh viện, khu đông đúc dân cư bị bom Mỹ huỷ diệt. Ông xuống tận các khu phố bị bom Mỹ tàn phá như Khâm Thiên, An Dương, Bạch Mai ngay cả trong 12 ngày đêm của trận Ðiện Biên Phủ trên không lịch sử, thăm hỏi Nhân dân, tham gia dập lửa cùng các chiến sĩ tự vệ, các đội chữa cháy, băng bó người bị thương, chôn cất những người đã hy sinh. Trong những năm tháng đó, hình ảnh ông gắn liền với biết bao sự kiện của thủ đô.

Ngoài khối lượng công việc to lớn của người đứng đầu thủ đô, ông còn dành nhiều thời gian tiếp dân, trong giờ hành chánh tại công sở; những buổi tối, ngày nghỉ, ông tiếp dân bất cứ lúc nào ngay tại nhà riêng của mình, nghe từng vụ việc cụ thể và sau đó, giải quyết luôn cho dân.

Ông tự soạn thảo các bài diễn văn, các báo cáo, các thư từ, điện tín… mà không yêu cầu thư ký. Trong thời gian làm Chủ tịch UBND TP Hà Nội, có tầm nhìn xa trông rộng, ông ôm ấp ý tưởng biến sông Hồng trở thành một thực thể của Hà Nội ngàn năm văn hiến.

Ông có thói quen, cứ chiều 30 Tết, chuẩn bị một túi quà, đợi người công nhân quét rác cuối cùng đến làm nhiệm vụ thì tặng túi quà đó.

Một hôm, có bà cụ ở Sóc Sơn ra Hà Nội, đến vườn hoa cạnh hồ Hoàn Kiếm, không may bị rơi mất hành lý, tiền bạc. Khi bà cụ đang trình báo với công an thì Bác sĩ Trần Duy Hưng đi qua. Ông dừng xe, lắng nghe và biếu bà cụ ít tiền, rồi bảo anh công an lái xe đưa bà cụ đến bến xe khách lên đường về quê. Về đến nhà, bà cụ dặn con cháu: "Ông chủ tịch thành phố là người tốt, khi nào ông mất, các con phải thay mẹ đến thắp nén hương và lạy tạ vong linh ông".

Ngày 2/10/1988, ông qua đời trong niềm tiếc thương của Nhân dân và bạn bè quốc tế; người con trai của bà cụ nói trên nhớ lời mẹ dặn, ra Hà Nội, tay cầm nén hương, xin Ban Tổ chức Lễ tang vào viếng người quá cố.

Ngày 3/2/2005, ghi nhận công lao to lớn của ông đối với sự nghiệp cách mạng của Ðảng và dân tộc, Nhà nước ta đã truy tặng ông Huân chương Hồ Chí Minh.

Ðể tưởng nhớ một trí thức yêu nước có nhiều cống hiến cho thủ đô và đất nước, năm 1999, Hội đồng Nhân dân TP Hà Nội quyết định đặt tên ông cho một đường phố đẹp và hiện đại ở cửa ngõ phía Tây thủ đô./.

Nguyễn Xuyến tổng hợp

Nhớ mái trường thời chiến

Giữa năm 1967, tôi được địa phương chọn đưa đi học Trường Bổ túc văn hoá tu nghiệp sư phạm huyện Trần Văn Thời, đào tạo giáo viên cho cơ sở.

Nghĩa tình son sắt, vượt thời gian

Mối quan hệ kết nghĩa giữa Ninh Bình (miền Bắc hậu phương) và Bạc Liêu (miền Nam tiền tuyến, nay là tỉnh Cà Mau) là biểu tượng mẫu mực của tình đoàn kết Bắc - Nam, hưởng ứng phong trào kết nghĩa giữa các tỉnh do Trung ương Ðảng phát động năm 1960. Vượt qua khoảng cách địa lý, tình nghĩa keo sơn này được hun đúc và phát triển bền vững từ những năm tháng kháng chiến đến ngày nay.

Treo cờ dụ địch

Hướng tới ngày kỷ niệm Chiến thắng Ðầm Dơi - Cái Nước - Chà Là (23/11/1963), tôi xin viết lại câu chuyện treo cờ dụ địch, ghi theo lời kể của đồng chí Châu Thái Biết, nguyên Tiểu đội trưởng Trinh sát đặc công, Tiểu đoàn 306 anh hùng (đã mất cách đây gần 3 năm), như sự tri ân những người trực tiếp làm nên chiến công bất tử trên mảnh đất Cà Mau giàu truyền thống cách mạng.

Thương về đồng đội

Những ngày tháng 10, mưa giăng đầy trời, lòng người cũng thường hoài niệm về quá khứ. Đội Văn nghệ Thị đội Cà Mau năm xưa, những cựu chiến binh tuổi quá lục tuần lại quây quần bên nhau cùng hát, múa, tưởng nhớ đồng đội đã hy sinh.

Chiếc khăn rằn của má Út Bình 

Bằng duyên may lớn, tôi đã gặp được bà Nguyễn Thị Bình, bí danh Út Bình - “Bà má Chính uỷ”, tại căn nhà người thân của bà ở phường An Xuyên. 99 tuổi đời, 77 năm tuổi Đảng, bà Út Bình là tấm gương ngời sáng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đức hy sinh cao cả và tấm lòng người phụ nữ Nam Bộ nói riêng, phụ nữ Việt Nam nói chung.

Nhớ năm tháng ấy

Hồi đó, tôi trốn nhà đi Thanh niên xung phong chớ ba má tôi đâu có cho. Tôi lên Xã đoàn Phong Lạc, gia đình đi theo lên kiếm bắt về. Lúc đó tôi đang ở nhà anh Lự, nghe ba má tôi lên kiếm, tôi chui vô rẫy mía trốn. Anh Hai, anh Sáu của tôi hy sinh năm 1970. Anh Ba tôi, tức anh Ba Phú, lúc đó đang công tác ở Huyện đoàn Cái Nước cho nên nhà đâu còn ai, tôi đi Thanh niên xung phong năm đó mới có 15 tuổi hà, ba má cưng tôi lắm!

Sáng mãi di nguyện của Người

Tháng 5/1965, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đặt bút viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc, được Người gọi là “để lại mấy lời....” phòng khi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Ðảng khỏi cảm thấy đột ngột.

Dấu ấn hoạt động đồng chí Võ Văn Kiệt tại Cà Mau

Ðồng chí Võ Văn Kiệt - nguyên Thủ tướng Chính phủ, người được biết đến với bí danh “chú Sáu Dân” thân thương. Đồng chí đã hoạt động cách mạng, gắn bó với mảnh đất, con người Cà Mau.Trên địa bàn tỉnh hiện có 2 di tích lịch sử lưu dấu “chú Sáu Dân” với niềm tri ân, tưởng nhớ của người dân Cà Mau với đồng chí, gồm Di tích cấp tỉnh Nơi ở và Làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt, ở xã U Minh và Di tích Quốc gia đặc biệt Căn cứ Cái Chanh, ở xã Ninh Thạnh Lợi.

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...

Quốc khánh trong ký ức Mẹ Việt Nam anh hùng

80 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về ngày 2/9/1945 vẫn rực sáng trong lòng dân tộc. Giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh cất cao lời Tuyên ngôn độc lập đã khiến hàng triệu trái tim Việt Nam vỡ oà, từ thân phận nô lệ trở thành người tự do. Với các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) ở Cà Mau, ký ức về ngày Quốc khánh đầu tiên ấy mãi là niềm tự hào thiêng liêng, theo suốt cả cuộc đời.