ĐT: 0939.923988
Thứ hai, 25-8-25 23:58:55
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Bùi ngùi ngày trở lại

Báo Cà Mau Vậy là đã 40 năm các cựu chiến binh Xưởng Quân giới Cà Mau mới có dịp về thăm lại chiến trường xưa trên địa bàn huyện Đầm Dơi. Con đường về ấp Thanh Tùng, xã Thanh Tùng, vừa nhỏ, lại ngoằn ngoèo, xe cứ dồn sốc liên hồi nhưng không làm các cụ bận tâm, bởi những cái tên Kinh Ông Đơn, Kinh Ba, Cả Đuốc… với những năm tháng nhiều gian khổ, hy sinh nhưng cũng lắm nghĩa tình đang hiện đầy trong tâm trí các cụ.

Vậy là đã 40 năm các cựu chiến binh Xưởng Quân giới Cà Mau mới có dịp về thăm lại chiến trường xưa trên địa bàn huyện Đầm Dơi. Con đường về ấp Thanh Tùng, xã Thanh Tùng, vừa nhỏ, lại ngoằn ngoèo, xe cứ dồn sốc liên hồi nhưng không làm các cụ bận tâm, bởi những cái tên Kinh Ông Đơn, Kinh Ba, Cả Đuốc… với những năm tháng nhiều gian khổ, hy sinh nhưng cũng lắm nghĩa tình đang hiện đầy trong tâm trí các cụ.

Ân nghĩa Thanh Tùng

Ông Tám Hải (Ðào Hồng Hải), nguyên Trưởng Ban kỹ thuật của xưởng, kể lại: “Hồi đó, sau khi chuyển từ địa bàn rừng tràm U Minh xuống rừng đước Năm Căn, các bộ phận của xưởng đóng quân rải rác từ Thanh Tùng (Ðầm Dơi) xuống đến hai bên bờ sông Tam Giang (Năm Căn, Ngọc Hiển). Xứ Thanh Tùng lúc ấy nước ngọt, rất dồi dào bồn bồn, rau muống, cá đồng. Anh chị em xưởng nhờ bà con đùm bọc, san sẻ từng con cá, nắm rau. Còn bên kia sông Tam Giang là nước mặn, cũng nhờ bà con nơi đây cung cấp nước ngọt để sinh hoạt hằng ngày”.

Các cựu chiến binh Xưởng Quân giới Cà Mau thăm lại địa danh Cả Đuốc, nơi ngày xưa xưởng đóng quân.

Trong bài phát biểu của mình tại buổi họp mặt bà con Thanh Tùng, ông Tám Hải cũng khẳng định, để hoàn thành tốt được nhiệm vụ sản xuất vũ khí phục vụ chiến đấu, để xưởng có được thành tích là đơn vị anh hùng, 2 cá nhân anh hùng, công đóng góp, giúp đỡ của bà con nơi đóng quân là vô cùng lớn, trong đó có bà con ở xứ sở Thanh Tùng”.

Hôm ấy hay tin đoàn đến, một số cựu chiến binh của các đơn vị chiến đấu ngày xưa từng sử dụng vũ khí của xưởng hiện về nghỉ hưu ở Thanh Tùng cũng có mặt. Các cụ gặp nhau, tay bắt mặt mừng và coi nhau như anh em thân thuộc. Bởi ngày xưa họ từng có sự phối hợp ăn ý, nhịp nhàng trong nhiệm vụ. Cho đến bây giờ, các chú vẫn rất tự hào về những chiến công từ vũ khí của xưởng, làm các cựu chiến binh của xưởng cũng thấy vui và hãnh diện.

Ông Huỳnh Bồi, nguyên Tiểu đội phó, Ðại đội Pháo binh tỉnh, bày tỏ: “Hồi đó cơ sở vật chất của xưởng chưa có gì, trình độ anh em xưởng cũng hạn chế, chỉ có vài cán bộ 9 năm còn lại, nhưng đơn vị chiến đấu chúng tôi yêu cầu loại vũ khí nào là xưởng nghiên cứu và đáp ứng được hết. Tôi nhớ lúc đó đánh tàu giặc phải dùng thuỷ lôi, mỗi trái nặng cả 250 kg, vận chuyển rất khó khăn mà đánh cũng trật giuộc. Vậy là xưởng nghiên cứu sản xuất thành công loại đạn SSAL có tầm bắn hơn 300 m, nhờ đó mà tiêu diệt được rất nhiều tàu sắt địch, bẻ gãy chiến dịch “Hạm đội nhỏ trên sông” của chúng. Còn nhiều loại vũ khí khác cũng ra đời theo yêu cầu chiến trường như thế. Phải nói anh em xưởng giỏi vô cùng!...”.

Ông Trần Thanh Nam, nguyên Tiểu đội trưởng, Ðại đội 3, Tiểu đoàn U Minh, cũng chia sẻ: “Nhớ lần bắn 2 chiếc phum (tàu sắt) của địch ở Vàm Cái Tàu. Lúc đó tàu địch có cấu tạo 3 lớp sắt dày, súng mình bắn nhiều lần không hiệu quả. Vì vậy mà bọn chúng huênh hoang “tàu sắt chứ không phải tàu gỗ, xin đừng bắn, bắn tróc nước sơn mất công sơn lại”. Vậy mà lần đó, mình dùng đạn SSAL của xưởng bắn thủng 2 tàu, từ đó địch vô cùng hoang mang lo sợ…”.

Ngày trở lại, người xưa phần lớn đã không còn, các cựu chiến binh xưởng cũng không có điều kiện để đi thăm lại hết các gia đình đã cưu mang làm các cụ thấy lòng hết sức ái ngại. Phần lớn các phần quà trao tặng được đại diện con cháu những gia đình có công nhận. Từ buổi gặp gỡ này, thế hệ tiếp sau cũng hiểu hơn về vùng đất của mình, về công lao của ông bà, cha mẹ mình trong công cuộc giải phóng quê hương. 

Anh Võ Thái Sơn, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã Thanh Tùng, đại diện Ðảng uỷ, UBND xã bày tỏ niềm tự hào về truyền thống quê hương và hứa sẽ tuyên truyền để các thế hệ sau này hiểu và có trách nhiệm hơn trong hiện tại.

Đất đã hoá tâm hồn

Thanh Tùng hôm nay thay da đổi thịt. Những con đường đất, những cánh rừng âm u, rậm rạp ngày nào đơn vị đóng quân giờ được thay bằng những con lộ bê-tông, những vuông tôm trống trải. Dấu tích xưa không còn, nhưng vẫn còn trong lòng các cụ bao xúc động, bùi ngùi. Chỉ tay về phía một vuông tôm ở kinh Ông Ðơn, ông Năm Diệp (Phan Văn Diệp, nguyên Phó Giám đốc xưởng), bùi ngùi: “Ðây là nơi đóng quân của bộ phận hoá chất. Có đến 13 đồng chí đã hy sinh trong quá trình sản xuất vũ khí (phần nhiều là cưa trái lấy thuốc bị nổ). Thịt da các đồng chí đã hoà trộn, gởi vào bùn đất của xứ sở Thanh Tùng này…”.

Phải mãi đến 40 năm mới về thăm lại chiến trường xưa khi vạn vật đã đổi thay, người xưa vắng bóng làm các cựu chiến binh xưởng cảm thấy như có lỗi, nhưng ông Ba Phát (Nguyễn Tấn Phát, nguyên Phó Giám đốc xưởng), thật lòng: “Khi giải phóng rồi, xưởng giải tán, mỗi người một công việc, một nơi. Rồi bao ngổn ngang bừa bộn đổ nát của đất nước sau chiến tranh cần phần bắt tay vào kiến thiết, rồi học hành nâng cao trình độ, rồi con cái gia đình, rồi đánh vật với khó khăn cơm áo gạo tiền… mình không có điều kiện về thăm lại chiến trường xưa. Ðể rồi khi sắp xếp được thì đã người còn, người mất. Cái khó của các bác hiện nay là vấn đề sức khoẻ và tiền bạc. Ða số đều nghèo, muốn đi đâu là cả vấn đề. May mà anh Hồ Thanh Hải, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty TNHH MTV Xổ số kiến thiết Cà Mau, ngày trước cũng là lính của xưởng, ảnh biết được, cho xe đưa và hỗ trợ tiền tặng 20 suất quà cùng những chi phí khác mới có được chuyến đi này”.

Còn nhiều việc rất cần làm như: xây dựng bia kỷ niệm nơi thành lập xưởng, thăm lại hết các địa bàn xưởng từng đóng quân, hỗ trợ các cựu binh xưởng đời sống khó khăn… nhưng Ban liên lạc xưởng dường như đang trong tình cảnh “lực bất tòng tâm”.

Bữa cơn chia tay thật thân tình, cảm động. Những món ăn quê nhà được các cựu chiến binh của xưởng giờ nghỉ hưu ở địa phương chợ búa, lo liệu. Là những món ăn đồng quê nhưng tình cảm thì ấm áp, mặn nồng. Các cụ lưu luyến mãi không muốn rời xa những người đồng đội cũ, xa mảnh đất Thanh Tùng, xa nơi ngày nào chịu đựng bao gian khổ, hy sinh… Bởi ở cái tuổi ngoài “thất thập”, trong lòng ai cũng ngầm hiểu biết có còn được trở lại lần sau?!

Chứng kiến cảnh chia tay đầy bịn rịn này, Ðại tá Lê Quốc Yên, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Ðảng uỷ, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh (những năm sắp giải phóng, anh là cậu bé vị thành niên theo cha vào làm công nhân trong xưởng), phải thốt lên: “Ðúng là Nơi ta ở chỉ là nơi đất ở/Nơi ta đi đất đã hoá tâm hồn”(*)./.

(*) Thơ Chế Lan Viên.

Bài và ảnh: Huyền Anh

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 2: Tìm hài cốt liệt sĩ nơi xứ người

Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ được Đảng, Nhà nước, Quân đội và thân nhân liệt sĩ được tăng cường, bất kể thời tiết, địa hình trắc trở. Dẫu lắm vất vả, gian truân nhưng là hành trình tri ân về tình đồng đội, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về

LTS: Vào ngày 17/7/2024, Bộ Công an ban hành Kế hoạch số 356/KH-BCA-C06 về việc triển khai thu nhận mẫu ADN cho thân nhân của liệt sĩ chưa xác nhận được danh tính trên toàn quốc. Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà là Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin, đã chỉ đạo một cách sát sao đối với công an của các tỉnh, thành phố. Hoạt động ý nghĩa, nhân văn này nhằm đưa hài cốt các anh hùng liệt sĩ về đất mẹ an táng với tên họ và thông tin đầy đủ nhất, thể hiện sự tri ân mà thế hệ hôm nay đối với thế hệ đi trước.

Những chi bộ đảng đầu tiên ở Cà Mau

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3/2/1930) dưới sự sáng lập và rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam với con đường kiên định: Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. 

Trung đoàn Đặc công Đ10 kỷ niệm 80 năm thành lập

Ngày 9/8, Trung đoàn Đặc công Đ10 Anh hùng long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập, khẳng định truyền thống vẻ vang và tiếp nối ngọn lửa nhiệt huyết cách mạng cho thế hệ sau.

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.