Ðịa danh Cái Tàu ở U Minh Hạ gợi biết bao nỗi nhớ niềm thương với những ai gắn bó và cả sự háo hức tò mò với những người chưa đến. Cũng như nhiều địa danh lâu đời khác ở Cà Mau, Cái Tàu không chỉ là một cái tên, mà còn ẩn chứa trong lòng biết bao vỉa tầng trầm tích văn hoá, lịch sử gắn với biết bao thế hệ con người đã làm nên hồn cốt, bản sắc độc đáo của một vùng đất địa linh, nhân kiệt với bề dày lịch sử hàng trăm năm.
Nhiều chuyến về Cái Tàu, vậy mà lần nào lòng tôi cũng chộn rộn những cảm xúc man mác luyến lưu. Những xóm làng bình yên nép dọc dài theo con sông thơ thới rộng, ẩn hiện trong những dòng kênh rạch hun hút là những vườn tược xanh ngọt mát lành gợi lên một vùng đất trù phú, nếp sống con người bình dị, hiền hoà, nhân hậu và phóng khoáng. Ông bạn có cái tên na ná tôi, là Nguyễn Thanh Ril (chúng tôi vẫn tếu táo gọi nhau là “ní”), hiện là Phó chủ tịch UBND xã Nguyễn Phích, nói rằng địa danh Cái Tàu có từ xa xưa lắm rồi.
Bình yên sông Cái Tàu (đoạn sông Cái Tàu chảy ngang qua Trụ sở UBND xã Nguyễn Phích).
Dẫn lại những giai thoại dân gian, ông bạn tôi đồng tình với cách lý giải về địa danh của xứ sở quê hương mình theo hai hướng. Thứ nhất, Cái Tàu là cách chỉ con sông lớn, sông chính, với thành tố “Cái” vẫn phổ biến theo cách đặt tên địa danh của nhiều nơi ở nước ta; và thành tố “Tàu”, theo người xưa chỉ vùng nước lợ, nước lạt. Trên thực tế, sông Cái Tàu pha nước ngọt của sông Trèm Trẹm và cả vị mặn từ sông Ông Ðốc lấn vào, thế nên nước “ba chè”, lờ lợ theo đoạn, theo mùa. Cái Tàu vì thế được hiểu là dòng sông lớn, sông chính có nước lờ lợ. Còn cách lý giải khác, nơi đây thời Pháp thuộc người dân đã huy động hàn một cản thật lớn ở ngã ba vàm sông cái để ngăn tàu giặc. "Cản Tàu" dần dà gọi trại thành "Cái Tàu". Tôi thì thiên về cách lý giải thứ nhất, bởi Cái Tàu là địa danh từ thời mở đất, lập ấp, lập làng, xuất hiện rõ nhất từ thời “Gia Long bôn tẩu” tại Cà Mau vào cuối thế kỷ XVIII và rõ ràng có trước những biến cố lịch sử của thời kỳ Pháp xâm lược nước ta (nếu tính từ mốc 1858 đến nay thì chỉ có gần 170 năm).
Cái Tàu là tên sông, rồi sau đó thành tên xóm, tên chợ, tên vàm. Sông Cái Tàu dài khoảng 43 km, bắt nguồn từ ngã ba vàm Cái Tàu, chạy uốn khúc giữa lòng U Minh Hạ, đổ ra Tiểu Dừa giáp với Kiên Giang, rồi hoà dòng với biển phía vịnh Thái Lan. Tôi tra cứu và qua cả những bài viết đọc được nói rằng sông Cái Tàu có 3 màu nước: xanh, đỏ, vàng chảy qua 6 xã/thị trấn của huyện U Minh. Về chuyện con sông đi qua bao nhiêu xã thì tôi tự mình kiểm chứng được, riêng chuyện nước 3 màu thì còn phải tiếp tục... nghiên cứu thêm.
Con người Cái Tàu luôn mang trong mình dòng máu quật khởi, kiên cường, nồng nàn lòng yêu quê hương, đất nước và căm ghét lũ giặc cướp nước và bè lũ tay sai sâu mọt bán nước, hại dân. Gương sáng của 2 anh hùng nghĩa sĩ, Ðỗ Thừa Luông, Ðỗ Thừa Tự, đứng lên chống Pháp (1872) đã làm rạng danh mãi đất này. Dân gian còn truyền tụng câu ca dao: “Xóm Cái Tàu có nhiều nhà quốc sự/ Ðỗ Thừa Luông, Ðỗ Thừa Tự với chú Lồng Ban”. Sau này trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc, Cái Tàu tiếp tục là vùng căn cứ địa cách mạng, sản sinh ra những người chiến sĩ cộng sản kiên trung, anh hùng mà tên tuổi đã lưu danh sử sách.
Ðặc biệt nhất là chuyện người anh hùng Trịnh Minh Hưởng, một mình làm nên một trận đánh diệt giặc với chiến công phi thường... Còn riêng tôi, đối với ông Ba Vị, tức ông Ðoàn Thanh Vị, nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Bạc Liêu, nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Minh Hải, người con của vùng Cái Tàu mà tôi may mắn được biết, là cả một tấm lòng kính trọng, ngưỡng phục về đức độ của một người cộng sản suốt đời tận hiến cho dân, cho nước.
Nhưng để hình dung một cách toàn diện về cốt cách người Cái Tàu thì cần bổ khuyết thêm một khía cạnh khác, như câu ca dao: “Cái Tàu nước ngọt dừa xanh/ Ðã xinh con gái lại lành con trai”. Ông Dư Tấn Anh (Sáu Anh, sinh năm 1942), nguyên Bí thư Ðảng uỷ xã Nguyễn Phích, cho biết: “Từ xưa người dân Cái Tàu đã hình thành nền nếp sống văn hoá đẹp. Ðàn ông siêng năng nhưng cũng rất bặt thiệp, tài hoa. Phụ nữ thì khéo tay, đảm đang. Từ đời này truyền sang đời khác thành cốt cách con người nơi đây khoan hoà, tao nhã, hào sảng, tài hoa, trọng nghĩa khinh tài...”.
Ông Dư Tấn Anh, nguyên Bí thư Ðảng uỷ xã Nguyễn Phích, cung cấp nhiều câu chuyện lý thú về đất và người Cái Tàu.
Ðể dẫn giải thêm câu chuyện về cái hay, cái riêng của vùng đất, con người Cái Tàu, ông Sáu Anh tiết lộ thêm nhiều điều thú vị của xứ sở này. Ðầu tiên là chuyện về lá dừa nước ở Cái Tàu. Thời xưa, dừa nước còn được gọi là dà diệp, cũng là huê lợi mà người dân Cà Mau sớm khai thác trong cuộc mưu sinh. Riêng dừa nước mọc ven sông Cái Tàu thuộc loại tốt nhất ở Cà Mau với chiều dài ngoại cỡ. Từ thứ dừa nước thượng hạng này, người Cái Tàu sử dụng lá dừa nước theo cách độc nhất vô nhị là đan mê bồ dí lúa từ xa xưa.
Một nghề trăm năm khác của Cái Tàu là đan đát. Theo ông Sáu Anh, nghề này có thể được người từ vùng trên mang về, truyền lại cho người dân. Từ đó, người Cái Tàu trao truyền và lưu giữ mãi cho đến nay. Còn một sản vật khác cũng nức tiếng trăm năm qua của xứ này: dâu Cái Tàu. Ông bạn phó chủ tịch xã nói với tôi, từ hồi chuyển dịch, đồng đất ngậm mặn, cây dâu Cái Tàu lụi dần. Sau này, một số bà con cố công gầy dựng lại vườn dâu, nhưng năm trúng, năm trật vì thổ nhưỡng đã không còn như trước. Sau này, nhiều người nói vui về dâu Cái Tàu với hàm nghĩa nước đôi, một là trái dâu, còn nghĩa khác là nói về nết tốt, tính đẹp của con gái xứ Cái Tàu. Tôi thoáng buồn. Vườn dâu trăm năm, nay chỉ còn một miền nhớ tiếc ngẩn ngơ...
Nghề đan đát trăm năm nay vẫn được người dân xứ Cái Tàu gìn giữ, trao truyền (Nghề đan đát tại hộ gia đình bà Nguyền Thị Bé, Ấp 3, xã Nguyễn Phích).
Vậy mà cái nghề lâu đời nhất của cư dân Cái Tàu vẫn còn, nếu không nói là đang mang lại sự sung túc, giàu có cho người dân, đó là nghề gác kèo ong. Sử sách còn ghi lại chuyện lớp tiền nhân đầu tiên đến Cà Mau chọn 2 nghề khởi thuỷ “nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá”. Nghề gác kèo ong gắn với rừng U Minh Hạ không chỉ được trao truyền, gìn giữ, mà nay đã là một niềm tự hào lớn lao khi được vinh danh là nghề di sản quốc gia. Theo chân anh Quách Văn Nhứt, Ấp 1, xã Nguyễn Phích, đi ăn ong tận lõi rừng sâu, chúng tôi từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác. Ðầu tiên là về sự cực nhọc của nghề rừng, đúng là “ăn của rừng thì rưng rưng nước mắt”. Nhưng bù lại, một chuyến ăn ong thu vài chục lít mật, với giá cả hiện tại thì đó là một nguồn thu nhập lớn cho người dân quê. Và điều ấm lòng nhất, là những người sống tựa vào rừng như anh Nhứt trân trọng và cam kết gắn bó, gìn giữ rừng với tâm niệm là giữ gìn cuộc sống hôm nay và cả tương lai của chính mình và cho những thế hệ tiếp nối.
Chọn Nguyễn Phích để phác hoạ về địa danh Cái Tàu, tôi có những lý do riêng. Bởi đây là đoạn giữa của dòng sông Cái Tàu, gọi nôm na là “khúc mức” với những đặc trưng tiêu biểu cho vùng đất, con người nơi đây. Còn đó những con người là nhân chứng sống để kể, để nói về nơi chôn nhau, cắt rún của mình bằng cả máu thịt và tấm lòng. Nguyễn Phích hiện nay là xã lớn nhất tỉnh Cà Mau, với 20 ấp, cư dân với đời sống mới vẫn gìn giữ được hồn cốt, phong vị riêng có của xứ Cái Tàu không lẫn vào đâu được. Tương lai của vùng đất này, như lời của ông bạn tôi, nơi đây sẽ là một quê hương giàu và đẹp với niềm tự hào lớn lao. Niềm tự hào ấy là gì? Tôi hỏi. Bạn tôi nhẹ nhàng đáp: "Tự hào về đất và người Cái Tàu, mãi mãi..."./.
Ký của Phạm Quốc Rin