(CMO) Trải qua nhiều thăng trầm, cây trúc vẫn cứ bám trụ nơi quê hương Biển Bạch Đông.
“Vùng quê này bao đời gắn bó với trúc, lắm lúc con người phụ cây trúc chứ nó thì chẳng bao giờ phụ người. Mấy tháng nay, nắng quá, lá trúc héo vàng nhưng thân trúc vẫn xanh. Bất cứ giai đoạn nào, cây trúc vẫn mang một giá trị riêng có, một sức sống bền bỉ và hiện tại trúc lại đem về giá trị kinh tế lớn cho con người nơi đây”, ông Lê Hữu Nghĩa, ấp Lê Giáo, xã Biển Bạch Đông, huyện Thới Bình, bày tỏ.
Một đời gắn bó
Năm nay bước sang tuổi 67, là người sinh sống và lớn lên trên vùng đất Biển Bạch Đông, gắn bó một đời với cây trúc nên hơn ai hết ông Bảy Nghĩa hiểu rành rọt về loại cây này. Chỉ tay về phía những khóm trúc, ông Bảy kể: “Vùng đất này trước đây ngọt hoá nên cây trúc bén rễ phát triển. Hồi ấy, nhà nào cũng trồng trúc. Thấy trúc bền, dẻo dai nên bà con mình tận dụng, sáng tạo ra nhiều loại vật dụng có ích trong cuộc sống. Lúc đó, cây lúa và cây trúc luôn hiện diện trong đời sống người dân nơi vùng sông nước này”.
Vườn trúc hiện nay dần mang lại nhiều giá trị kinh tế cho người dân vùng Biển Bạch Đông. |
Cây trúc được tận dụng từ gốc đến cành, mỗi bộ phận đều có tác dụng khác nhau. Những vật dụng được sử dụng trong gia đình như thúng, nia, xịa… đều được làm từ trúc. Hồi ấy, nhà nào cũng trồng trúc nên ai nấy trong gia đình đều biết đương trúc để tạo ra nhiều sản phẩm thông dụng nhưng rất bền bỉ. Và nghề đan mê bồ cũng xuất hiện từ đó và được lưu truyền cho đến tận ngày nay, mang lại nguồn kinh tế ổn định cho bà con vùng Biển Bạch Đông.
Ông Bảy trải lòng: “Nhờ nghề đan mê bồ phát triển mà bà con nơi đây dần có cuộc sống ổn định. Khi nước mặn tràn vào, diện tích trồng trúc bị thu hẹp, nhưng nhiều người dân nắm níu lưu giữ nghề này. Giờ đây, sản phẩm mê bồ mang lại giá trị lớn thì bà con nơi đây càng vui mừng khi nghề truyền thống được tiếp tục phát triển”.
Ấm no nhờ cây trúc
Từ năm 1990, nghề đan mê bồ thịnh hành tại Biển Bạch Đông. Theo như người dân nới đây kể lại, nghề đan mê bồ được truyền lại từ bà Chín Hỏi (đã mất). Quê bà Chín ở tận vùng Cao Lãnh (Đồng Tháp) nhưng bà quyết định truyền lại nghề cho bà con và an cư lạc nghiệp tại vùng đất này.
Từ khi theo chồng về đây, gần 30 năm qua, chị Võ Thị Trang (ấp Lê Giáo) đã gắn bó với nghề đan mê bồ. Chị Trang nhớ lại: “Lúc đó, trúc được trồng nhiều lắm và hầu hết nhà nào cũng biết đan mê bồ. Tôi nhớ hồi ấy đan 1 tấm mê bồ được đổi 1 táo gạo. Ngoài thời gian làm đồng, gia đình tôi tranh thủ làm thêm nghề đan mê bồ để có đồng ra đồng vô. Đan mê bồ khó nhưng sẽ dễ dàng đối với những ai chịu mày mò làm”.
Lúc nghề còn hưng thịnh, cả xóm đều ra công đan mê bồ để mong có được cơ hội khấm khá. Chuyển dịch, diện tích trồng trúc dần bị thu hẹp do nước mặn. Niềm vui của con tôm nhưng là nỗi buồn cây trúc. Những chủ vườn “nắm níu” nghề nên vẫn cứ khăng khăng chừa đất trồng trúc.
Thăng trầm của cây trúc, bấp bênh nghề đan mê bồ vì nước mặn. Nhưng không bao lâu, khi giá tôm, cua có nhiều biến động thì người dân nơi đây quay lại bám trụ nghề đan mê bồ. Thế là những vườn trúc bắt đầu hồi sinh. Tổ hợp tác đan mê bồ của xã Biển Bạch Đông được hình thành trong niềm vui của những người “nhớ nghề”.
Là người góp công thành lập tổ hợp tác đan mê bồ của xã, chị Nguyễn Thị Út (ấp Lê Giáo) tâm sự: “Thấy phụ nữ vùng quê đời sống còn gặp nhiều khó khăn nên tôi quyết định cùng với chị em phát triển nghề truyền thống. Vừa tạo công ăn việc làm vừa giữ được nghề truyền thống. Nghề là một phần nhưng quan trọng hơn hết là chị em tụi tôi luôn tìm được niềm vui trong cuộc sống. Tổ hợp tác thành lập vào năm 2015, đó chính là thành quả mà chúng tôi đã dày công tôn tạo, gìn giữ, phát huy nghề truyền thống đan mê bồ”.
Tổ hợp tác có 15 thành viên, các sản phẩm từ mê bồ của tổ hợp tác đã dần có mặt trên thị trường một số tỉnh khác như Đồng Tháp, An Giang… và sang cả nước bạn Campuchia. Tổ hợp tác được đầu tư máy móc, sản phẩm làm ra cũng ngày càng tăng cao hơn. Dù có trang thiết bị máy móc nhưng công đoạn đan thành sản phẩm vẫn phải làm thủ công. Một người thợ lành nghề, khéo léo mỗi ngày có thể đan từ 5-8 tấm, tiền công khoảng 12.000 đồng/tấm. Mỗi tháng, tổ hợp tác cung cấp cho thị trường từ 300-400 cuộn, mỗi cuộn dài từ 16-22 m.
Và để những tấm mê bồ đạt kích cỡ, chất lượng thì cũng phải nhờ công sức tính toán tỉ mỉ của một thành viên - mà mọi người thường hay gọi vui là anh “cò trúc”. Anh “cò” này tên thật là Lê Văn Thẹo, 45 tuổi, ấp Nguyễn Huế, xã Tân Bằng, người chuyên tìm kiếm, thu mua trúc từ khắp nơi về cho tổ hợp tác.
Anh Thẹo thông tin: “Để sản phẩm làm ra đạt chất lượng, kích cỡ, chủng loại mà thị trường yêu cầu thì người mua trúc phải biết lựa chọn vườn trúc đúng tuổi. Cây trúc không quá già cũng không được quá non, phải đạt từ 3-3,5 tuổi thì trúc mới thẳng và dẻo. Thường thì chúng tôi mua cả vườn trúc chứ không mua từng cây nên phải biết quan sát tổng quan khu vườn và trả giá đúng để chủ vườn vui, mà người làm ra sản phẩm như chúng tôi cũng có lời từ trúc. Mỗi người góp một chút, vừa có thu nhập nhưng vẫn giữ được nghề truyền thống là vui rồi”.
Tại Biển Bạch Đông, hiện diện tích trồng trúc không còn nhiều như trước, nhưng nghề đan mê bồ vẫn còn được duy trì và phát triển. Người dân nơi đây một lòng gắn bó với cây trúc, với những tấm mê bồ. Chính sự gắn bó không tách rời mà nghề truyền thống này vẫn mãi trường tồn dù trải qua nhiều thăng trầm./.
Hằng My