ĐT: 0939.923988
Thứ tư, 4-6-25 06:45:24
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Chống sạt lở - Hành trình của nỗ lực và tâm huyết - Bài cuối: Gỡ khó từ chính sách

Báo Cà Mau Cà Mau được xác định là tỉnh có tiềm năng phát triển kinh tế biển, nhiều vị trí ven biển được đầu tư các dự án phát triển dịch vụ du lịch, dịch vụ hậu cần nghề cá, dự án phát triển điện gió, điện năng lượng mặt trời. Nếu những khó khăn, vướng mắc trong xã hội hoá được tháo gỡ kịp thời không chỉ giúp tỉnh phòng, chống, khắc phục sạt lở, mà còn khai thác hết tiềm năng, phát triển kinh tế - xã hội.

Toàn bộ diện tích ven biển của tỉnh được quy hoạch là đất rừng phòng hộ. Trong khi đó, chỉ tiêu quy hoạch sử dụng đất quốc gia không cho phép giảm diện tích rừng phòng hộ hay theo quy định Luật Lâm nghiệp thì rất khó chuyển đổi mục đích sử dụng rừng đối với diện tích có rừng...; nên thời gian qua tỉnh không thể triển khai thực hiện được các dự án xã hội hoá đầu tư khai thác tiềm năng kinh tế ven biển theo Chiến lược biển.

Mâu thuẫn từ các quy định

Tình trạng sạt lở diễn biến nhanh, từ năm 2015 đến nay, đai rừng phòng hộ dịch chuyển vào đất liền bình quân hơn 100 m, trong khi việc kiểm kê và điều chỉnh quy hoạch sử dụng rừng chậm (năm 2019 thực hiện tổng kiểm kê rừng). Do đó, phần diện tích rừng phòng hộ trước đó (kiểm kê năm 2014) hiện nay là mặt nước nhưng trong quy hoạch vẫn là đất rừng. Thực tế này khiến việc triển khai thực hiện các dự án, đặc biệt là các dự án liên quan đến diện tích rừng ven biển đã bị sạt lở gặp nhiều khó khăn.

Ngoài ra, quy định Luật Lâm nghiệp, Luật Xây dựng còn chồng chéo, khó thực hiện. Cụ thể, tại điểm b, khoản 2, Ðiều 24, Nghị định số 156/2018/NÐ-CP của Chính phủ quy định, khi xây dựng các công trình phục vụ cho hoạt động du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí không được chuyển mục đích sử dụng đất đối với diện tích xây dựng công trình. Trong khi đó, Luật Xây dựng, Luật Ðất đai quy định diện tích đất thực hiện công trình xây dựng phải được quy hoạch là loại đất phù hợp với công trình, tức trường hợp này phải là đất dịch vụ thương mại.

Quy định của Luật Lâm nghiệp còn mâu thuẫn với Luật Ðất đai. Tại khoản 4, Ðiều 136, Luật Ðất đai năm 2013 quy định, UBND cấp tỉnh quyết định cho tổ chức kinh tế thuê đất rừng phòng hộ thuộc khu vực được kết hợp với kinh doanh cảnh quan, du lịch sinh thái - môi trường dưới tán rừng. Tuy nhiên, theo quy định tại Ðiều 17, Luật Lâm nghiệp năm 2017, không cho thuê đối với rừng phòng hộ mà chỉ được cho tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân thuê rừng sản xuất là rừng tự nhiên, rừng sản xuất là rừng trồng, trả tiền thuê rừng một lần hoặc hằng năm để sản xuất lâm nghiệp; sản xuất lâm, nông, ngư nghiệp kết hợp; kinh doanh du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí.

Ðể tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, UBND tỉnh đã có Báo cáo số 396/BC-UBND kiến nghị Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh chỉ tiêu đất rừng phòng hộ, rừng đặc dụng của tỉnh.

Trong quy hoạch, Kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2021-­2030 được Thủ tướng phân bổ tại Quyết định số 326/QÐ-TTg, ngày 9/3/2022, giao chỉ tiêu đến năm 2025, diện tích đất rừng phòng hộ là 31.234 ha, diện tích đất rừng đặc dụng là 20.200 ha, đất rừng sản xuất là 91.555 ha. Như vậy, diện tích rừng phòng hộ toàn tỉnh đến năm 2025 chỉ giảm 673 ha, trong khi chỉ tính riêng sạt lở ven biển mỗi năm đã mất lên đến hơn 510 ha; riêng đối với diện tích rừng đặc dụng lại giao tăng hơn 100 ha so với hiện trạng năm 2020. Việc giao chỉ tiêu sử dụng đất quốc gia như thế không thể có chỉ tiêu để chuyển đổi diện tích đất rừng phòng hộ ở những nơi cần thiết để thực hiện các dự án phát triển kinh tế biển.

Cần cơ chế đặc thù

Theo đề án phòng, chống sạt lở bờ biển, bờ sông của tỉnh giai đoạn 2021-2025, tầm nhìn đến năm 2030, tỉnh đặt ra mục tiêu đến năm 2030 hoàn thành khoảng 90% việc sắp xếp lại dân cư, di dời dân cư ra khỏi khu vực bờ biển, bờ sông có nguy cơ xảy ra sạt lở cao. Phấn đấu đến năm 2025, hoàn thành xử lý sạt lở tại các khu vực trọng điểm xung yếu, ảnh hưởng trực tiếp đến khu dân cư tập trung, hệ thống đê điều, cơ sở hạ tầng thiết yếu vùng ven sông, ven biển. Ðối với các công trình phòng, chống sạt lở bờ biển, phấn đấu thực hiện 90% số lượng công trình đề xuất đầu tư; đối với các công trình phòng, chống sạt lở bờ sông, phấn đấu hoàn thành xử lý các khu vực sạt lở đặc biệt nguy hiểm. Ðến năm 2030, các khu vực sạt lở nguy hiểm tại các khu vực bờ sông trên địa bàn tỉnh Cà Mau cơ bản được xử lý bằng giải pháp công trình.

Từng là khu vực sạt lở đặc biệt nguy hiểm, nhưng kể từ khi được xây dựng kè tạo bãi, đoạn đê khu vực Ðá Bạc, xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời được bảo vệ an toàn.

Ðể kịp thời thực hiện các công trình phòng, chống sạt lở, ngăn chặn tình trạng mất đất, mất rừng diễn ra ngày càng nhanh và phức tạp trong thời gian chờ sửa đổi các quy định của pháp luật có liên quan đến công tác phòng, chống sạt lở bờ biển còn nhiều bất cập, chồng chéo, Phó chủ tịch UBND tỉnh Lê Văn Sử kiến nghị, cho phép thí điểm thực hiện các công trình theo cơ chế đặc thù. Cụ thể như cho phép giao, cho thuê một phần diện tích đất rừng phòng hộ được bảo vệ sau kè đối với khu đất đã bị sạt lở để xây dựng công trình, dự án phát triển kinh tế; cho phép thực hiện giao đất ở vị trí khác để thực hiện dự án đầu tư theo hình thức BT khi nhà đầu tư đề xuất thực hiện dự án kè bảo vệ bờ biển hay cho phép điều chỉnh kịp thời quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch rừng ven biển cho phù hợp với thực trạng diễn biến sạt lở (không chờ 5 năm theo quy định).

Thời gian qua, có nhiều nhà đầu tư nghiên cứu đề xuất đầu tư hệ thống kè phá sóng (cách bờ biển từ 100-150 m), tại các đoạn bờ biển đang bị sạt lở và đầu tư khôi phục lại diện tích rừng đã mất do sạt lở. Qua đó, nhà đầu tư được quyền sở hữu việc giao dịch tín chỉ carbon đối với diện tích rừng khôi phục được sau kè. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam chưa xây dựng, ban hành thực hiện khung pháp lý liên quan đến thị trường giao dịch tín chỉ carbon nên địa phương không có cơ sở để xem xét, quyết định đối với các đề xuất, kiến nghị ấy của nhà đầu tư.

Ðiển hình trong số đó là Tập đoàn Mitsui của Nhật Bản. Vừa qua, Tập đoàn Mitsui đã tìm hiểu và đề xuất với tỉnh được nghiên cứu đề xuất đầu tư các dự án kè biển để tham gia khắc phục sạt lở, khôi phục lại diện tích rừng đã mất trên toàn bộ bờ biển của tỉnh. Ðồng thời, đề nghị tỉnh cho phép được quyền giao dịch tín chỉ cacbon đối với diện tích rừng tạo ra từ dự án. Tuy nhiên, do còn một số vấn đề vướng mắc nên chưa thể triển khai được.

Thời gian qua, việc xử lý sạt lở từ bờ biển cho đến bờ sông chủ yếu từ nguồn ngân sách Nhà nước nên nhiều khu vực sạt lở đặc biệt nguy hiểm và nguy hiểm chưa được triển khai đầu tư xử lý. Theo tổng hợp, hiện trạng sạt lở bờ biển, bờ sông tại các địa phương và nhu cầu đầu tư xây dựng các công trình phòng, chống sạt lở là rất lớn. Theo dự kiến, chỉ tính riêng kinh phí đầu tư xây dựng các công trình phòng, chống sạt lở bờ biển, bờ sông, đê sông, đê biển và công trình chỉnh trị lòng sông giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030, cần khoảng 31.205 tỷ đồng. Cụ thể, cần triển khai đầu tư 177 công trình; trong đó, phòng, chống sạt lở bờ biển 10 công trình; phòng, chống sạt lở bờ sông 30 công trình; chỉnh trị giảm thiểu xói lở 36 công trình; đê biển 5 công trình; đê sông 96 công trình.

Ðây là nguồn kinh phí vô cùng lớn, nhất là đối với một tỉnh còn khó khăn như Cà Mau. Tuy nhiên, dù khó nhưng phải làm bởi đây là những nhiệm vụ nhằm đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản của Nhân dân. Giải pháp hữu hiệu nhất hiện nay là tăng cường huy động nguồn lực ngoài ngân sách, nhất là của tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân được hưởng lợi trong phòng, chống sạt lở.


Hơn 10 năm qua, cả ngân sách hỗ trợ từ Trung ương và các nguồn cân đối của địa phương cũng chỉ mới dành được hơn 3 ngàn tỷ đồng cho các dự án phòng, chống sạt lở. Tuy nhiên, Phó chủ tịch UBND tỉnh Lê Văn Sử cho biết, nếu chúng ta khai thác tốt lợi thế về tín chỉ carbon rừng thì lĩnh vực này mỗi năm có thể mang về 1-2 ngàn tỷ đồng. Ngoài ra, Tập đoàn Mitsui của Nhật Bản đã đến và đề nghị đầu tư toàn bộ kè bờ biển còn lại của tỉnh, chỉ cần đủ cơ sở pháp lý để triển khai là hoàn toàn có thể đạt được.


 

Nguyễn Phú

 

"Chiếc nôi chung" thương nhớ, tự hào - Bài cuối: “Quê chúng ta Cà Mau”

Những ngày này, tỉnh Cà Mau và tỉnh Bạc Liêu đang tập trung khẩn trương cho công tác chuẩn bị hợp nhất thành tỉnh Cà Mau mới - một phiên bản được nâng cấp toàn diện, đầy kỳ vọng của Minh Hải xưa. Cà Mau - Bạc Liêu lại chung một mái nhà, một chiếc nôi với trọn vẹn những nghĩa tình, những khát vọng phát triển lớn lao, với sức vóc mạnh mẽ, thế và lực vững vàng ở địa đầu cực Nam Tổ quốc.

"Chiếc nôi chung" thương nhớ, tự hào

Khi chủ trương hợp nhất tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu thành tỉnh Cà Mau được công bố và thông tin rộng rãi, có một điều kỳ lạ đã diễn ra. Không có sự nuối tiếc, không hề âu lo, mà trái lại, đó là sự hào hứng, phấn chấn và đồng thuận cao độ của Nhân dân 2 tỉnh. Vậy là Cà Mau - Bạc Liêu lại về chung một mái nhà, chung một khát vọng, cộng hưởng và nhân lên sức mạnh, niềm tin để cùng nhau xây dựng vùng đất phía địa đầu cực Nam Tổ quốc bừng sáng trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

"Chiếc nôi chung" thương nhớ, tự hào - Bài 2: Chặng đường 20 năm lịch sử

Tỉnh Minh Hải tồn tại trong 20 năm, từ 1976 đến hết năm 1996, vượt qua nhiều thách thức, trở ngại, kể cả những thời khắc hết sức gian khó để hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh lịch sử với những thành tựu hết sức to lớn, đặt nền tảng vững chắc cho đà ổn định, phát triển của 2 tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu, về sau này.

Cà Mau - Ðịa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài cuối: Bừng sáng vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc

Cà Mau hôm nay đổi mới, phát triển từng ngày. Những cán bộ lão thành cách mạng, những bậc cao niên ở Cà Mau mà chúng tôi có dịp gặp, đã trải qua bom đạn chiến tranh, trải qua những ngày tháng Cà Mau còn đầy khó khăn, tất cả đều nói rằng, Cà Mau mình bây giờ đã phát triển nhiều lắm, đời sống Nhân dân đã sung túc hơn trước bội phần. Từ vùng đất hoang vu, nê địa; từ những đau thương, mất mát lớn lao trong kháng chiến; đến nay, Cà Mau đã vươn mình đi lên bằng sức vóc mới, thế và lực mới, để chặng đường phát triển tương lai sẽ làm bừng sáng vùng đất địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam.

Cà Mau - địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài 4: Vùng đất của những sản vật vang danh

Dù lên rừng hay xuống biển, Cà Mau đều sẵn có những đặc sản trứ danh. Nếu chỉ nhắc đến đại khái, nhiều người sẽ chưa thoả dạ hoặc lòng còn hoài nghi, thắc mắc. Sự trù phú của thiên nhiên hoà quyện với quá trình lao động siêng năng, bền bĩ, đúc kết kinh nghiệm và sự sáng tạo tài hoa của lớp lớp con người Cà Mau đã kết tụ nên giá trị và sức sống lâu bền của những sản vật đặc trưng ở vùng đất mới.

Lưu Hữu Phước – Nhạc sĩ tài danh đất Tây Đô

Hai ba thế hệ người Việt Nam hát những ca khúc của nhạc sĩ tài danh Lưu Hữu Phước. Không có cuộc đời nào, tâm hồn nào trên đất nước Việt Nam thân yêu thế kỷ vệ quốc anh hùng mà không được Lưu Hữu Phước giục giã.

Ngày giải phóng Cà Mau

Cà Mau - địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài 3: Bức tranh văn hoá đa sắc

Dù ở vùng đất mới, gốc gác khác biệt, song khi về tới Cà Mau, thế hệ tiền nhân đã sớm ý thức về nguồn cội, quần tụ và cố kết với nhau bằng sợi chỉ đỏ chảy xuyên suốt của nền văn hoá dân tộc Việt Nam bốn ngàn năm: “Từ thuở mang gươm đi mở cõi/Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”.

Cà Mau - Địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài 2: Con người Cà Mau - Nét duyên xứ sở

Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng cho rằng: “Con người là chủ thể văn hoá, cách ứng xử của con người với chính mình, với thiên nhiên và các mối quan hệ xã hội định hình nên đặc điểm và tính cách của nền văn hoá ấy”. Ở vùng đất mới Cà Mau, nếu không nói về con người Cà Mau, tính cách và cốt cách của con người Cà Mau thì quả thật là một điều thiếu sót lớn. Hồn cốt quê hương, khí phách của ông cha là nơi hậu thế soi chiếu vào đó để nhận diện được chính mình và khơi mở những chặng đường tương lai của mảnh đất này.

Cà Mau - Địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc

Khi Báo Cà Mau đăng loạt ghi chép pha chút hơi hướng khảo cứu này, tỉnh Cà Mau đang hừng hực khí thế, với thế và lực mới vững vàng hoà vào dòng chảy thời đại cùng cả dân tộc, đất nước Việt Nam tiến bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển phồn thịnh, giàu mạnh, hạnh phúc.