ĐT: 0939.923988
Thứ năm, 16-5-24 21:10:34
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Chuyến đi nhiều cảm xúc

Báo Cà Mau (CMO) Ngày ấy, mỗi khi chiều xuống, nhà tôi rất vui. Các anh du kích, bộ đội, các chị văn công tập trung giã cốm dẹp, ca, múa, hát, tôi thích lắm. Lúc đó tôi còn nhỏ chưa nhớ nhiều, chỉ nhớ câu lối: “Võ Thị Sáu đáng yêu, đáng kính, Sáu ơi! Anh không biết nói làm sao ngăn được dòng lệ căm hờn...”. Các anh chị ai cũng thuộc bài vọng cổ này.

Mẹ tôi kể: “Cô Võ Thị Sáu, người con gái quê hương Ðất Ðỏ, sớm yêu nước, đi làm cách mạng, bị giặc Tây bắt, đánh đập, tra tấn dã man. Nhưng cô kiên cường, dũng cảm, không khuất phục trước đầu lê, họng súng của kẻ thù. Giặc đày cô ra trại giam Côn Ðảo, cô còn trẻ lắm, mấy năm sau chúng bắn cô; trên đường ra pháp trường cô hái hoa lê ki ma cài lên tóc, mắt nhìn thẳng quân thù... cô đã anh dũng hy sinh ”thà chết đứng còn hơn sống quỳ”. Những người yêu nước đều yêu tấm gương oanh liệt của cô. Con lớn lên con sẽ hiểu nhiều hơn về những người yêu nước, những người liệt sĩ, những anh hùng dân tộc...”.

Mẹ tôi cũng 13 lần vào tù, ra khám. Mẹ là người mẹ chiến sĩ gan dạ, thông minh. Tôi càng yêu mẹ thì càng yêu những người yêu nước và căm thù bọn giặc cướp nước, bè lũ bán nước.

Côn Ðảo yên bình hôm nay được đổi bằng biết bao máu xương của cha anh đi trước. Ảnh: KIỀU LOAN

Một ngày nọ, cô Tư Kết, một người hoạt động cách mạng bị giặc bắt giam, ra tù về trị bệnh ở xóm tôi. Cô kể: “Chúng tra tấn, chích điện, đóng đinh 2 tay, xẻo 2 vú cô”. Những người nghe lặng im cảm xúc, lúc đó tôi còn nhỏ chưa biết cảm nhận đau đớn nhiều, chỉ chạy tới sờ tay lên ngực cô, cô im lặng ôm tôi vào lòng. Cô kể tiếp: “Kẻ thù còn làm nhục nữ tù, hòng làm lung lay ý chí người cộng sản. Nhưng dù chúng dã tâm tra tấn bằng mọi cách, cũng không thắng được lòng yêu nước”.

Năm 1978, tôi gặp ông Tạ Văn Ðường (Tư Ðường) tại Bệnh viện Ða khoa Cần Thơ. Ông là tù nhân từ Nhà tù Phú Quốc, sau  năm 1975 được rước về. Lúc đó trong người ông mang rất nhiều bệnh. Ông kể: “Chế độ nhà tù khắc nghiệt, tàn ác vô cùng. Chúng tra tấn tù nhân bằng mọi thủ đoạn như: đóng đinh 2 tay, 2 chân, thọc cây nhọn vào cổ họng, mổ bụng, lóc da, xẻo thịt, phơi nắng, phơi mưa, bỏ đói, khát..., chúng buộc tù nhân ly khai, chào cờ. Tù nhân đấu tranh bằng cách tuyệt thực, chúng nấu chì lỏng, còn đang nóng, cạy miệng tù nhân đổ vào, nhiều đồng chí hy sinh ngay lập tức. Bạn của ông cũng hy sinh như vậy”. Nghe tới đây lòng tôi đau xé, tim như ngừng đập, thương quá những thiên thần yêu Tổ quốc.

“Một trăm lần nghe, không bằng một lần thấy”, một ngày hạ tuần tháng 4/2023, chúng tôi gồm 39 cựu chiến binh được về thăm mảnh đất thiêng Côn Ðảo. Chuyến đi do Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức. Chuyến đi đã để lại trong lòng tôi nhiều cảm xúc khó diễn tả hết bằng lời.

Tại bến cảng, người từ các nơi đến Côn Ðảo đông chật, mưa không lớn, nhưng rỉ rả đổ nước suốt ngày. “Thương khóc cho ai, trời cũng đang rơi lệ”, hình như trời cũng cảm động lòng người.

Hành trình mấy ngày ở đây, chúng tôi được tham quan khắp nơi trên Côn Ðảo như: Bảo tàng Côn Ðảo, viếng mộ Nữ anh hùng liệt sĩ Võ Thị Sáu, thắp hương cho những đồng chí nằm yên nghỉ tại Nghĩa trang Hàng Dương. Lặng lẽ kiếm tìm giữa những ngôi mộ vô danh, tôi không biết ông ngoại và cậu của mình nằm ở đâu?

Hôm đoàn chúng tôi viếng mộ liệt sĩ Võ Thị Sáu, có nhiều đoàn từ khắp mọi miền đất nước cũng đến viếng. Tất cả bốn phương về đây vì yêu thương những người hy sinh cho đất nước bình yên; yêu quý cô Sáu và sự tâm linh, huyền bí ở vùng đất linh thiêng này, yêu thương những anh hùng liệt sĩ, người thân an nghỉ nơi đây không tên, không tuổi, không bia mộ, không còn thân xác...

Tôi lặng nghe tim mình đau buốt, gởi gắm tâm tư, suy nghĩ yêu thương, cảm phục bằng nén hương lòng đến hương hồn người thân, các cô, chú, bác và các đồng chí, đồng bào...

Tượng Nữ anh hùng liệt sĩ Võ Thị Sáu trang nghiêm trong Nghĩa trang Hàng Dương, Côn Ðảo.

Ðến chuồng cọp (nhà tù của Pháp và Mỹ), nhà tù Phú Hải, nhà tù Phú Tường, nhà tù Phú Bình, nơi thực dân Pháp xây bằng đá hộc, chúng tôi tận mắt thấy trên đầu tường gắn miểng chai, chì gai, lợp mái ngói, tol thấp, mười phòng giống nhau, mỗi phòng giam 200 người tù. Nghe kể lại, chúng tra tấn người tù bằng mọi cực hình từ thể xác đến tinh thần, đánh đập đến tan nát thịt xương, thiếu ăn, thiếu uống, vệ sinh tồi tệ, nóng bức, mắc nhiều bệnh, không có thuốc trị... Bọn thực dân đối xử với người tù như thú, nên mới gọi là chuồng cọp.

Ðến thời Mỹ nguỵ, chúng nâng mái tol lên, nhưng chúng xây giàn sắt phía trên không cho tù nhân trốn thoát, thuận tiện cho cai ngục giám sát từ trên xuống, dội nước, đổ vôi bột, thịt da cháy phỏng, cây nhọn bịt đồng thọc xuống bể đầu, rách thịt. Mùa nắng, chúng dồn tù nhân đầy phòng không có chỗ nằm, không đủ không khí thở. Mùa mưa, chúng giam 1-2 người rồi dội nước liên tục cho lạnh cóng và chết.

Cai ngục đánh tù nhân không ngơi nghỉ. Ðược thưởng hay thăng chức đều lôi tù nhân ra đánh đập ăn mừng, say xỉn cũng lôi tù nhân đánh cho vui, bị cấp trên la rầy lôi tù nhân đánh trút giận... Suốt ngày đêm người tù bị tra tấn dã man, người tù đau đớn là thú vui của chúng. Cho tù nhân ăn cơm chúng còn trộn trấu với cát chung.

Côn đảo có 384 phòng giam, chuồng cọp chúng giấu kín 30 năm. Chúng mị dân làm phòng xay lúa, phòng khổ sai, phòng ngăn kín không cho ánh sáng và gió vào. Cối xay lúa rất nặng, 6-7 người kéo mà chân còn bị đeo quả tạ từ 3-7 kg. Tù nhân phòng này đều mắc bệnh phổi và bệnh mờ mắt, ốm đau chết dần.

Xà lim (hầm đá) người tù bị còng 24/24 giờ. Xà lim đôi giam từ 20-30 người, người chết vô số kể. Chúng mị dân xây nhà ăn, phòng hớt tóc, câu lạc bộ, phòng y tế, đó là trá hình chứ không được sử dụng.

Những người lãnh đạo kiệt xuất đã bị đày ra Côn Ðảo như: cụ Phan Chu Trinh, đồng chí Lê Hồng Phong, Chủ tịch Tôn Ðức Thắng bị giam phòng số 9 suốt 15 năm liền (từ 1930-1945). Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh 2 lần tù; Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Trần Văn Thời, Bí thư Tỉnh uỷ Cà Mau - Bạc Liêu, hy sinh ngày 5/2/1942 (40 tuổi); bà Trương Mỹ Hoa (nguyên Phó chủ tịch nước) bị giam phòng số 35; bà Võ Thị Thắng bị giam phòng số 27.

Nữ tù phải chịu cực hình như nam giới, nhưng không được tắm giặt, chỉ có bộ quần áo trên người, tới chu kỳ của phụ nữ, các chị xé quần áo làm vải lót, lấy nước tiểu giặt để sử dụng lần sau. Các chị đấu tranh đòi quyền được ăn, được tắm... Các chị tự mổ bụng chấp nhận hy sinh để chị em khác sống, tiếp tục đấu tranh.

Và mặc dù bị giam cầm, tra tấn, nhưng những người tù yêu nước vẫn lạc quan, vẫn làm thơ, ca hát và thành lập chi bộ đầu tiên có 20 đảng viên. Ðây chính là sức sống mãnh liệt, tuyệt vời của người yêu nước.

Trải qua 113 năm thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã đày ải lần lượt 200 ngàn người yêu nước ra Côn Ðảo. Cao điểm nhất giam giữ 12 ngàn người. Có khoảng 20 ngàn người yêu nước an nghỉ tại đây nên vùng đất này gọi là vùng đất thiêng. Côn Ðảo có diện tích chỉ 76 km2 nên khi bọn giặc đào hố chôn tù nhân thì hài cốt chồng chất lên nhau không kể xiết.

Giấy mực nào ghi cho hết tội ác của thực dân Pháp và Mỹ - nguỵ đối với chiến sĩ cách mạng và đồng bào ta...

 

Kim Ngân

 

Vinh quang bất tử

Mỗi câu chuyện từ những nhân chứng đi ra từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đều là những trang sử sống quý giá, sinh động, mà may mắn thay, hậu thế chúng tôi, những người không biết đến bom đạn chiến tranh còn có thể nghiêng mình chiêm ngưỡng.

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ - SỨC MẠNH VIỆT NAM, TẦM VÓC THỜI ĐẠI - Phần II: Diễn biến, kết quả của chiến dịch

Sau khi công tác chuẩn bị hoàn thành, ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng tiến công Điện Biên Phủ. Chiến dịch diễn ra thành ba đợt trong gần hai tháng. Với địa hình hiểm trở, việc kéo pháo vào tập trung tại trận địa đã vô cùng khó khăn.Tuy nhiên, với tinh thần quả cảm, không quản ngại gian khổ, hy sinh, quân và dân ta đã tìm mọi cách vượt qua thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ - SỨC MẠNH VIỆT NAM, TẦM VÓC THỜI ĐẠI - Phần III: Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của chiến dịch Điện Biên Phủ

Chiến thắng Điện Biên Phủ của dân tộc ta đã chứng minh một chân lý của thời đại: các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó nhất định thắng lợi.

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ - SỨC MẠNH VIỆT NAM, TẦM VÓC THỜI ĐẠI - Phần I: Bối cảnh lịch sử, âm mưu của thực dân Pháp và sự chỉ đạo chiến lược của ta

70 năm đã trôi qua, Chiến dịch Điện Biên Phủ (07.5.1954 - 07.5.2024) là chiến thắng vĩ đại đã ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một mốc son rực sáng nhất trong thế kỷ XX. Đây là chiến thắng của chủ nghĩa yêu nước, ý chí bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử... Ý nghĩa, tầm vóc, những bài học lịch sử vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bản anh hùng ca bất diệt của thời đại Hồ Chí Minh

Đúng ngày này 70 năm trước, bộ đội ta đã nổ những phát súng đầu tiên mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, tiến công tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của thực dân Pháp mà ngay cả trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ II cũng không có tập đoàn cứ điểm nào mạnh bằng. Trải qua 56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non (thơ Tố Hữu), bộ đội Việt Nam anh hùng đã vượt lên bao mưa bom, bão đạn và cắm lá cờ Quyết chiến, Quyết thắng của Bác Hồ trao trên nóc hầm Đờ Cát, vào giữa tim con nhím Điện Biên Phủ, kết liễu số phận của nó.

Ðong đầy ký ức Ðiện Biên

Chiến thắng Ðiện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” năm 1954 là mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. 70 năm trôi qua, những người lính Bộ đội Cụ Hồ, thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến từng tham gia Chiến dịch Ðiện Biên Phủ luôn tự hào về những năm tháng gian khổ nhưng đầy oanh liệt ấy.

Chiến thắng Điện Biên Phủ, thắng lợi vĩ đại của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc

Cách đây vừa tròn 70 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã tiến hành trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, làm nên chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đây là thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam, minh chứng hùng hồn cho sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh.

Những năm tháng mãi trong tim...

Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, với quyết định mang tầm chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Ðảng, những chuyến tàu năm 1954 đã đưa nhiều người con miền Nam tập kết ra Bắc tiếp tục học tập, nhằm đào tạo lực lượng cán bộ cho sự nghiệp cách mạng lâu dài của Ðảng. Trong số đó, có những người con Cà Mau. Ðến nay, dù đã 7 thập kỷ trôi qua, nhưng họ vẫn nhớ như in cái ngày lịch sử ấy.

Vẹn nguyên giá trị ngày toàn thắng

49 năm, ngót nửa thế kỷ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, với tầm vóc lịch sử đã được đúc kết: “Thắng lợi của Nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta, một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc” (Báo cáo chính trị tại Ðại hội Ðại biểu toàn quốc lần thứ IV của Ðảng).

Ðội quân kiến vàng

Thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước, một số địa phương ở miền Nam, như Bến Tre, sáng tạo cách đánh giặc bằng hầm chông kết hợp ong vò vẽ, làm cho kẻ địch bao phen bạt vía... Ở Cà Mau, lại có loại vũ khí lợi hại chẳng kém ong vò vẽ, khiến quân nguỵ bị một phen điếng hồn, bỏ chạy, đó là “đội quân kiến vàng”, không phải nuôi và cũng không huấn luyện gì.