ĐT: 0939.923988
Thứ ba, 29-7-25 14:45:34
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Chuyến đi nhiều cảm xúc

Báo Cà Mau (CMO) Ngày ấy, mỗi khi chiều xuống, nhà tôi rất vui. Các anh du kích, bộ đội, các chị văn công tập trung giã cốm dẹp, ca, múa, hát, tôi thích lắm. Lúc đó tôi còn nhỏ chưa nhớ nhiều, chỉ nhớ câu lối: “Võ Thị Sáu đáng yêu, đáng kính, Sáu ơi! Anh không biết nói làm sao ngăn được dòng lệ căm hờn...”. Các anh chị ai cũng thuộc bài vọng cổ này.

Mẹ tôi kể: “Cô Võ Thị Sáu, người con gái quê hương Ðất Ðỏ, sớm yêu nước, đi làm cách mạng, bị giặc Tây bắt, đánh đập, tra tấn dã man. Nhưng cô kiên cường, dũng cảm, không khuất phục trước đầu lê, họng súng của kẻ thù. Giặc đày cô ra trại giam Côn Ðảo, cô còn trẻ lắm, mấy năm sau chúng bắn cô; trên đường ra pháp trường cô hái hoa lê ki ma cài lên tóc, mắt nhìn thẳng quân thù... cô đã anh dũng hy sinh ”thà chết đứng còn hơn sống quỳ”. Những người yêu nước đều yêu tấm gương oanh liệt của cô. Con lớn lên con sẽ hiểu nhiều hơn về những người yêu nước, những người liệt sĩ, những anh hùng dân tộc...”.

Mẹ tôi cũng 13 lần vào tù, ra khám. Mẹ là người mẹ chiến sĩ gan dạ, thông minh. Tôi càng yêu mẹ thì càng yêu những người yêu nước và căm thù bọn giặc cướp nước, bè lũ bán nước.

Côn Ðảo yên bình hôm nay được đổi bằng biết bao máu xương của cha anh đi trước. Ảnh: KIỀU LOAN

Một ngày nọ, cô Tư Kết, một người hoạt động cách mạng bị giặc bắt giam, ra tù về trị bệnh ở xóm tôi. Cô kể: “Chúng tra tấn, chích điện, đóng đinh 2 tay, xẻo 2 vú cô”. Những người nghe lặng im cảm xúc, lúc đó tôi còn nhỏ chưa biết cảm nhận đau đớn nhiều, chỉ chạy tới sờ tay lên ngực cô, cô im lặng ôm tôi vào lòng. Cô kể tiếp: “Kẻ thù còn làm nhục nữ tù, hòng làm lung lay ý chí người cộng sản. Nhưng dù chúng dã tâm tra tấn bằng mọi cách, cũng không thắng được lòng yêu nước”.

Năm 1978, tôi gặp ông Tạ Văn Ðường (Tư Ðường) tại Bệnh viện Ða khoa Cần Thơ. Ông là tù nhân từ Nhà tù Phú Quốc, sau  năm 1975 được rước về. Lúc đó trong người ông mang rất nhiều bệnh. Ông kể: “Chế độ nhà tù khắc nghiệt, tàn ác vô cùng. Chúng tra tấn tù nhân bằng mọi thủ đoạn như: đóng đinh 2 tay, 2 chân, thọc cây nhọn vào cổ họng, mổ bụng, lóc da, xẻo thịt, phơi nắng, phơi mưa, bỏ đói, khát..., chúng buộc tù nhân ly khai, chào cờ. Tù nhân đấu tranh bằng cách tuyệt thực, chúng nấu chì lỏng, còn đang nóng, cạy miệng tù nhân đổ vào, nhiều đồng chí hy sinh ngay lập tức. Bạn của ông cũng hy sinh như vậy”. Nghe tới đây lòng tôi đau xé, tim như ngừng đập, thương quá những thiên thần yêu Tổ quốc.

“Một trăm lần nghe, không bằng một lần thấy”, một ngày hạ tuần tháng 4/2023, chúng tôi gồm 39 cựu chiến binh được về thăm mảnh đất thiêng Côn Ðảo. Chuyến đi do Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức. Chuyến đi đã để lại trong lòng tôi nhiều cảm xúc khó diễn tả hết bằng lời.

Tại bến cảng, người từ các nơi đến Côn Ðảo đông chật, mưa không lớn, nhưng rỉ rả đổ nước suốt ngày. “Thương khóc cho ai, trời cũng đang rơi lệ”, hình như trời cũng cảm động lòng người.

Hành trình mấy ngày ở đây, chúng tôi được tham quan khắp nơi trên Côn Ðảo như: Bảo tàng Côn Ðảo, viếng mộ Nữ anh hùng liệt sĩ Võ Thị Sáu, thắp hương cho những đồng chí nằm yên nghỉ tại Nghĩa trang Hàng Dương. Lặng lẽ kiếm tìm giữa những ngôi mộ vô danh, tôi không biết ông ngoại và cậu của mình nằm ở đâu?

Hôm đoàn chúng tôi viếng mộ liệt sĩ Võ Thị Sáu, có nhiều đoàn từ khắp mọi miền đất nước cũng đến viếng. Tất cả bốn phương về đây vì yêu thương những người hy sinh cho đất nước bình yên; yêu quý cô Sáu và sự tâm linh, huyền bí ở vùng đất linh thiêng này, yêu thương những anh hùng liệt sĩ, người thân an nghỉ nơi đây không tên, không tuổi, không bia mộ, không còn thân xác...

Tôi lặng nghe tim mình đau buốt, gởi gắm tâm tư, suy nghĩ yêu thương, cảm phục bằng nén hương lòng đến hương hồn người thân, các cô, chú, bác và các đồng chí, đồng bào...

Tượng Nữ anh hùng liệt sĩ Võ Thị Sáu trang nghiêm trong Nghĩa trang Hàng Dương, Côn Ðảo.

Ðến chuồng cọp (nhà tù của Pháp và Mỹ), nhà tù Phú Hải, nhà tù Phú Tường, nhà tù Phú Bình, nơi thực dân Pháp xây bằng đá hộc, chúng tôi tận mắt thấy trên đầu tường gắn miểng chai, chì gai, lợp mái ngói, tol thấp, mười phòng giống nhau, mỗi phòng giam 200 người tù. Nghe kể lại, chúng tra tấn người tù bằng mọi cực hình từ thể xác đến tinh thần, đánh đập đến tan nát thịt xương, thiếu ăn, thiếu uống, vệ sinh tồi tệ, nóng bức, mắc nhiều bệnh, không có thuốc trị... Bọn thực dân đối xử với người tù như thú, nên mới gọi là chuồng cọp.

Ðến thời Mỹ nguỵ, chúng nâng mái tol lên, nhưng chúng xây giàn sắt phía trên không cho tù nhân trốn thoát, thuận tiện cho cai ngục giám sát từ trên xuống, dội nước, đổ vôi bột, thịt da cháy phỏng, cây nhọn bịt đồng thọc xuống bể đầu, rách thịt. Mùa nắng, chúng dồn tù nhân đầy phòng không có chỗ nằm, không đủ không khí thở. Mùa mưa, chúng giam 1-2 người rồi dội nước liên tục cho lạnh cóng và chết.

Cai ngục đánh tù nhân không ngơi nghỉ. Ðược thưởng hay thăng chức đều lôi tù nhân ra đánh đập ăn mừng, say xỉn cũng lôi tù nhân đánh cho vui, bị cấp trên la rầy lôi tù nhân đánh trút giận... Suốt ngày đêm người tù bị tra tấn dã man, người tù đau đớn là thú vui của chúng. Cho tù nhân ăn cơm chúng còn trộn trấu với cát chung.

Côn đảo có 384 phòng giam, chuồng cọp chúng giấu kín 30 năm. Chúng mị dân làm phòng xay lúa, phòng khổ sai, phòng ngăn kín không cho ánh sáng và gió vào. Cối xay lúa rất nặng, 6-7 người kéo mà chân còn bị đeo quả tạ từ 3-7 kg. Tù nhân phòng này đều mắc bệnh phổi và bệnh mờ mắt, ốm đau chết dần.

Xà lim (hầm đá) người tù bị còng 24/24 giờ. Xà lim đôi giam từ 20-30 người, người chết vô số kể. Chúng mị dân xây nhà ăn, phòng hớt tóc, câu lạc bộ, phòng y tế, đó là trá hình chứ không được sử dụng.

Những người lãnh đạo kiệt xuất đã bị đày ra Côn Ðảo như: cụ Phan Chu Trinh, đồng chí Lê Hồng Phong, Chủ tịch Tôn Ðức Thắng bị giam phòng số 9 suốt 15 năm liền (từ 1930-1945). Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh 2 lần tù; Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Trần Văn Thời, Bí thư Tỉnh uỷ Cà Mau - Bạc Liêu, hy sinh ngày 5/2/1942 (40 tuổi); bà Trương Mỹ Hoa (nguyên Phó chủ tịch nước) bị giam phòng số 35; bà Võ Thị Thắng bị giam phòng số 27.

Nữ tù phải chịu cực hình như nam giới, nhưng không được tắm giặt, chỉ có bộ quần áo trên người, tới chu kỳ của phụ nữ, các chị xé quần áo làm vải lót, lấy nước tiểu giặt để sử dụng lần sau. Các chị đấu tranh đòi quyền được ăn, được tắm... Các chị tự mổ bụng chấp nhận hy sinh để chị em khác sống, tiếp tục đấu tranh.

Và mặc dù bị giam cầm, tra tấn, nhưng những người tù yêu nước vẫn lạc quan, vẫn làm thơ, ca hát và thành lập chi bộ đầu tiên có 20 đảng viên. Ðây chính là sức sống mãnh liệt, tuyệt vời của người yêu nước.

Trải qua 113 năm thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã đày ải lần lượt 200 ngàn người yêu nước ra Côn Ðảo. Cao điểm nhất giam giữ 12 ngàn người. Có khoảng 20 ngàn người yêu nước an nghỉ tại đây nên vùng đất này gọi là vùng đất thiêng. Côn Ðảo có diện tích chỉ 76 km2 nên khi bọn giặc đào hố chôn tù nhân thì hài cốt chồng chất lên nhau không kể xiết.

Giấy mực nào ghi cho hết tội ác của thực dân Pháp và Mỹ - nguỵ đối với chiến sĩ cách mạng và đồng bào ta...

 

Kim Ngân

 

Tham khảo Công nghệ mới

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.