Thứ ba, 16-12-25 05:55:13
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Chuyến vượt sông ngoạn mục

Báo Cà Mau (CMO) Ông gọi cho tôi và nói nhanh qua điện thoại: “Việc sản xuất vũ khí của Xưởng Quân giới Cà Mau, cháu đã có viết, nhưng còn chuyện này mấy chú chưa kể…”.

Vậy là một ngày cuối tuần, tôi xuống đường Lý Văn Lâm (Phường 1, TP Cà Mau), qua khỏi Bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh một đỗi để tới nhà ông. Hơi giật mình vì thấy ông xuống sức nhanh so với mấy lần gặp trước, chân không còn nhanh nhẹn, tóc bạc nhiều hơn. Cũng phải, ông đã ở tuổi “bát thập” có dư rồi còn gì. Mừng là đầu óc ông còn khá minh mẫn và giọng nói thì vẫn sang sảng như ngày nào.

Ông “vào đề” ngay sau vài câu thăm hỏi: “Chú muốn kể chuyện đưa gần 20 tấn máy móc của Xưởng Quân giới Cà Mau vượt sông Tam Giang giữa lúc “Hạm đội nhỏ trên sông” hoành hành dữ dội. Giờ nhớ lại vẫn còn thấy hồi hộp trong lòng...”.

Những năm sau tổng tiến công và nổi dậy của quân, dân ta Xuân Mậu Thân 1968, giặc điên cuồng phản công. Tại rừng đước Năm Căn, nơi có nhiều cơ quan của tỉnh, của Khu đang hoạt động, bọn chúng ngoài dập bom, phóng pháo, cho bộ binh đi càn, rải chất độc hoá học hòng huỷ diệt, còn dùng chiến thuật “Hạm đội nhỏ trên sông” ngày đêm tuần tra phong toả sông Tam Giang, nhằm cắt đứt sự viện trợ từ đồng bằng, chia cắt, cô lập vùng căn cứ.

Ông Nguyễn Tấn Phát (nguyên Phó giám đốc Xưởng Quân giới Cà Mau - bên phải) và ông Ðào Hồng Hải (nguyên Trưởng ban Kỹ thuật xưởng) trong một lần thăm lại máy móc của Xưởng Quân giới Cà Mau, trưng bày tại Phòng Truyền thống Tỉnh đội.

Lúc này, Xưởng Quân giới Cà Mau đang đóng ở rạch Bà Bường (xã Tân Ân Tây, huyện Ngọc Hiển). Ðể thuận lợi cho việc sản xuất và cung cấp vũ khí cho bộ đội tác chiến, Tỉnh uỷ và Tỉnh đội chỉ đạo phải dời xưởng ngược về đồng bằng, miệt kênh Ông Ðơn (xã Thanh Tùng, huyện Ðầm Dơi ngày nay). Lệnh đã có, nhưng việc di dời phân xưởng tiện (phân xưởng có nhiều máy móc nhất chuyên hàn, tiện, sản xuất vũ khí bắn như: lăn-xà-bom, B50 và nhiều loại vũ khí khác) do ông là Nguyễn Tấn Phát - Ba Phát làm Phó giám đốc Xưởng Quân giới Cà Mau, kiêm phụ trách phân xưởng, vẫn chưa thực hiện được.

“Cả dàn máy tiện, máy hàn, khuôn dập… gần 20 tấn, di chuyển qua sông Tam Giang lúc đó đâu phải chuyện đơn giản. Trước hết mình phải tìm được nơi cất giấu máy móc an toàn ở bên kia, dời qua “ém” tạm, sau đó tính tiếp việc vận chuyển về địa điểm mới. Rồi còn phải “nằm đường” nắm quy luật tuần tra của tàu địch; coi con nước lúc nào phù hợp nữa. Mà lúc ấy bọn giặc cứ đánh tới, đánh tới hoài nên chưa thể di dời được”, ông phân trần.

Ông nhớ lại: “Hôm đó, mới 6 giờ sáng, giặc cho máy bay đánh ngay khu vực xưởng. Ðội chiến đấu bảo vệ xưởng đánh giằng co với chúng từ sáng tới trưa. Thấy tình hình không ổn, tôi chỉ đạo anh em rã hết máy móc của phân xưởng ra, khiêng dọn ngay xuống xuồng di chuyển ra khu vực rừng chồi. Vì mình phán đoán khu vực này bọn chúng ít chú ý, chủ yếu chúng tập trung đánh vào rừng rậm bởi có nhiều cơ quan của Khu, của tỉnh đang đóng. Từ trưa tới chiều, chúng tiếp tục cho nhiều đợt máy bay phóng pháo, quần đảo. Anh em bảo vệ vẫn bám theo, chiến đấu ngoan cường, tới 5 giờ chiều mới đẩy lùi được chúng. Mừng là con người và máy móc đều an toàn hết”.

Thấy bị lộ, không thể nào bám lại được nữa, ngay trong đêm đó ông quyết định bỏ căn cứ, chuyển hàng đi “ém” và gấp rút tính phương án vượt sông. “Vậy là 10 chiếc xuồng, mỗi chiếc từ 1,5-2 tấn chở đầy máy móc được đưa về ngọn Cả Chồn Lớn (cách đó gần 3 cây số) để nguỵ trang, cất giấu. Nơi này nước sâu, khi thời cơ thuận tiện là mình vận chuyển ra ngoài, vượt sông ngay. Chứ máy móc nặng mà để trong rạch cạn thì khó chủ động lắm”, ông giải thích.

Sau khi liên hệ và chọn được địa điểm tạm cất giấu hàng là Trại giam huyện Duyên Hải (Năm Căn ngày nay), ở kênh Cây Mắm (từ sông Tam Giang vô khoảng cây rưỡi số), ông tiến hành cho người đi trinh sát nắm tình hình.

“Anh em phải mất cả tuần theo dõi để nắm quy luật đi tuần tra của các tàu địch, sự xoay vòng của con nước, rồi về báo cáo. Cuối cùng chúng tôi quyết định qua sông lúc 6 giờ tối. Khi đó vừa né được cữ tuần tiễu của tàu địch, lại ngay nước lớn gần đầy sông, nếu có sự cố, chẳng hạn xuồng chết máy, thì hỗ trợ tới vàm Cây Mắm là nước lớn sẽ đẩy xuồng vào kênh. Chứ nếu bố trí ngay nước ròng, rạch cạn và chảy ngược ra, có sự cố là rất nguy hiểm”, ông diễn giải. Ðó là vào khoảng cuối năm 1971.

Câu chuyện tiếp tục trong hồi hộp: “Kế hoạch đâu đó xong xuôi, máy móc đang vận chuyển ra sông thì có tin bọn biệt kích vô ngọn Cả Chồn Lớn để đánh trạm kiểm lâm. Lúc đó, từ ngọn Cả Chồn Lớn đi ra có 2 đường rẽ, đường rẽ bên phải vô kênh Ba Láng là nơi trạm kiểm lâm đóng; đi thêm đoạn nữa tới đường rẽ trái là vô kênh tẻ thông ra Ðường Ðào tới nơi tập kết máy móc chuẩn bị vượt sông. Ðoàn vận chuyển vừa vào kênh tẻ thì xuồng chở bọn biệt kích chạy qua để vô kênh Ba Láng. Lúc này vỏ lãi chở 4-5 anh em chúng tôi vẫn còn loay hoay chỗ đầu kênh tẻ, bọn chúng chạy ngang bên kia sông, chỉ cách chừng 30 m. Có lẽ lo tập trung cho mục tiêu nên bọn chúng không để ý chúng tôi”.

Ông bảo, đây là một sự trùng hợp không lường trước được. Cái may là tàu vận chuyển máy móc đã vào khuất trong kênh, nếu không thì chẳng biết sự việc sẽ như thế nào - mặc dù các ông luôn trong tâm thế chiến đấu tới cùng để bảo vệ máy móc, phương tiện.

Khi đoàn xuồng được đưa tới điểm tập kết thì được biết đầu vàm Cả Chồn Lớn (trên sông Tam Giang, cách đó chỉ khoảng cây số), có chiếc tàu giặc đang đậu. Trước tình thế hết sức gay go, không nằm trong kịch bản, sau vài giây suy nghĩ, ông nhanh chóng đưa ra quyết định vẫn vượt sông, với nhận định: “Ðây là tàu đậu để yểm trợ bọn biệt kích, vì vậy ngay thời điểm bọn chúng nổ súng đánh trạm kiểm lâm thì đám lính trên tàu cũng tập trung tiếp ứng, hỗ trợ, lúc này mình lập tức cho nổ máy đồng loạt, tăng tốc hết mức để vượt sông. Ðây là thời cơ tốt nhất”.

Thế rồi mọi việc được thực hiện y như kế hoạch. “Chỉ trong vòng 5 phút, đoàn xuồng 10 chiếc chở gần 20 tấn máy móc và 1 vỏ lãi chở người theo bảo vệ đã nhanh chóng vượt sông Tam Giang một cách nhanh gọn, an toàn”, ông hào hứng kể, niềm vui chiến thắng ngày nào như sống lại.

Ông cũng cho biết, đoạn sông chỗ đó gần 500 m, nếu đi bình thường cũng tầm 8-10 phút. Trong tình thế cấp bách như vậy, phải phát huy cao độ khả năng con người và máy móc; mừng là không gặp trục trặc gì. Chuyến vượt sông này của xưởng được các đơn vị tiếp ứng khi đó đánh giá cao về sự nhanh gọn, chặt chẽ, tính quyết đoán và tinh thần trách nhiệm.

Tôi hỏi ông, lúc đó có khi nào nghĩ tới chuyện dừng kế hoạch vượt sông? Ông bảo chưa nghĩ tới, mọi việc chuẩn bị công phu, có quá trình nên kiên quyết thực hiện. Phương án vượt sông lúc đó có phần mạo hiểm, nhưng nhờ linh động chớp lấy ngay thời cơ tốt nên rất tự tin. Ở lại, không chắc tình hình tốt đẹp hơn.

Câu chuyện vẫn chưa kết thúc. Ông cho biết, về nơi đó chưa lâu, đơn vị phải chiến đấu một trận dữ dội với Tiểu đoàn Trâu Ðiên khét tiếng hung ác của Sư 21 nguỵ. Phải 1 ngày 1 đêm đơn vị mới đẩy lùi được trận càn tầm cỡ của địch.

“Lúc đó tôi mở máy bộ đàm nghe dưới mặt đất báo cáo lên trực thăng là ba mươi mấy nằm, 5-6 ngồi; tức là ba mươi mấy tên chết, 5-6 tên bị thương. Phía mình hy sinh 1 là Ðoàn Văn Trưa, cháu ruột đồng chí Ba Vị (Ðoàn Thanh Vị, nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Minh Hải)”, ông nhớ lại.

“Vậy là trước khi dời máy móc bị đánh, sau khi dời lại bị đánh”, tôi nói. Ông bảo, không phải chỉ 2 trận mà phải chiến đấu hàng mấy chục trận. “Bảo vệ xưởng lúc đó khó khăn vất vả lắm, phải vừa sản xuất vừa chiến đấu. Mà máy móc phân xưởng tiện là nhiều nhất và nặng nề nhất. Mỗi khuôn tiện từ 1-2 tấn, phải 30-40 người khiêng. Ở rừng U Minh, mỗi khi di tản máy móc thường đào giấu; về rừng đước thường khiêng xuống xuồng và nhận chìm. Qua đợt chống càn, lại trục vớt lên lau chùi, tiếp tục sản xuất. Máy móc sản xuất ra vũ khí đánh giặc, nếu bị tiêu huỷ rồi thì bó tay. Vì vậy mà cỡ nào cũng phải quyết tâm bảo vệ. Mừng là suốt 15 năm từ lúc xưởng thành lập đến ngày giải phóng đất nước, máy móc của xưởng được bảo vệ tuyệt đối an toàn”, ông tự hào.

Là người có mặt cùng Xưởng Quân giới Cà Mau từ những tháng đầu mới thành lập và gắn bó đến ngày giải phóng; từ thợ hàn, tiện lên quản đốc bộ phận này, rồi khi lên phó giám đốc xưởng cũng phụ trách bộ phận ấy nên ông luôn coi máy móc như máu thịt. Vì vậy mà tôi hiểu phần nào tình cảm của ông.

Chưa hết, sau khi về nghỉ hưu, theo đề xuất của Tỉnh đội, ông còn cùng ông Ðào Hồng Hải (nguyên Trưởng ban Kỹ thuật xưởng) và ông Ðỗ Thái Hoà (nguyên Quản đốc phân xưởng nguội) mày mò phục chế 32 mẫu vũ khí của xưởng và trưng bày tại Phòng Truyền thống Tỉnh đội.

Trở lại câu chuyện vượt sông, ông trần tình: “Thật ra, không phải để kể công, các chú sắp theo ông bà rồi, có mưu cầu danh lợi gì. Nhắc lại thời gian nan để thấy trách nhiệm với Ðảng, với dân, việc chấp hành mệnh lệnh của tổ chức và dù khó khăn vất vả thế nào vẫn cố gắng thực hiện tốt nhiệm vụ. Nhắc lại, để hậu thế phần nào hiểu được thực tế lịch sử lúc ấy, hiểu được những khó khăn mà thế hệ đi trước đã trải qua; để biết quý trọng cuộc sống hoà bình và có trách nhiệm với đất nước, quê hương”.


Thành lập tháng 1/1960, trải qua 15 năm hoạt động, Xưởng Quân giới Cà Mau sản xuất, cải biên hàng trăm loại vũ khí với hàng ngàn tấn phục vụ các đơn vị chiến đấu. Nổi tiếng nhất là sản xuất súng đạn lăn-xà-bom, làm nên tên tuổi Ba Lò Rèn. Ðơn vị 2 lần được tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân và 2 cá nhân: ông Nguyễn Trung Thành (Ba Lò Rèn, nguyên Giám đốc xưởng) và ông Trần Văn Phú (nguyên Phó giám đốc xưởng) vinh dự được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.


 

Huyền Anh

 

Khởi nghĩa Hòn Khoai - Biểu tượng anh hùng bất tử

Cách đây 85 năm, tại Hòn Khoai - đảo tiền tiêu phía Tây Nam Tổ quốc, diễn ra sự kiện lịch sử lừng lẫy: cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai, do Anh hùng Phan Ngọc Hiển lãnh đạo ngày 13/12/1940 giành toàn thắng.

Nhớ mái trường thời chiến

Giữa năm 1967, tôi được địa phương chọn đưa đi học Trường Bổ túc văn hoá tu nghiệp sư phạm huyện Trần Văn Thời, đào tạo giáo viên cho cơ sở.

Nghĩa tình son sắt, vượt thời gian

Mối quan hệ kết nghĩa giữa Ninh Bình (miền Bắc hậu phương) và Bạc Liêu (miền Nam tiền tuyến, nay là tỉnh Cà Mau) là biểu tượng mẫu mực của tình đoàn kết Bắc - Nam, hưởng ứng phong trào kết nghĩa giữa các tỉnh do Trung ương Ðảng phát động năm 1960. Vượt qua khoảng cách địa lý, tình nghĩa keo sơn này được hun đúc và phát triển bền vững từ những năm tháng kháng chiến đến ngày nay.

Treo cờ dụ địch

Hướng tới ngày kỷ niệm Chiến thắng Ðầm Dơi - Cái Nước - Chà Là (23/11/1963), tôi xin viết lại câu chuyện treo cờ dụ địch, ghi theo lời kể của đồng chí Châu Thái Biết, nguyên Tiểu đội trưởng Trinh sát đặc công, Tiểu đoàn 306 anh hùng (đã mất cách đây gần 3 năm), như sự tri ân những người trực tiếp làm nên chiến công bất tử trên mảnh đất Cà Mau giàu truyền thống cách mạng.

Thương về đồng đội

Những ngày tháng 10, mưa giăng đầy trời, lòng người cũng thường hoài niệm về quá khứ. Đội Văn nghệ Thị đội Cà Mau năm xưa, những cựu chiến binh tuổi quá lục tuần lại quây quần bên nhau cùng hát, múa, tưởng nhớ đồng đội đã hy sinh.

Chiếc khăn rằn của má Út Bình 

Bằng duyên may lớn, tôi đã gặp được bà Nguyễn Thị Bình, bí danh Út Bình - “Bà má Chính uỷ”, tại căn nhà người thân của bà ở phường An Xuyên. 99 tuổi đời, 77 năm tuổi Đảng, bà Út Bình là tấm gương ngời sáng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đức hy sinh cao cả và tấm lòng người phụ nữ Nam Bộ nói riêng, phụ nữ Việt Nam nói chung.

Nhớ năm tháng ấy

Hồi đó, tôi trốn nhà đi Thanh niên xung phong chớ ba má tôi đâu có cho. Tôi lên Xã đoàn Phong Lạc, gia đình đi theo lên kiếm bắt về. Lúc đó tôi đang ở nhà anh Lự, nghe ba má tôi lên kiếm, tôi chui vô rẫy mía trốn. Anh Hai, anh Sáu của tôi hy sinh năm 1970. Anh Ba tôi, tức anh Ba Phú, lúc đó đang công tác ở Huyện đoàn Cái Nước cho nên nhà đâu còn ai, tôi đi Thanh niên xung phong năm đó mới có 15 tuổi hà, ba má cưng tôi lắm!

Sáng mãi di nguyện của Người

Tháng 5/1965, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đặt bút viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc, được Người gọi là “để lại mấy lời....” phòng khi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Ðảng khỏi cảm thấy đột ngột.

Dấu ấn hoạt động đồng chí Võ Văn Kiệt tại Cà Mau

Ðồng chí Võ Văn Kiệt - nguyên Thủ tướng Chính phủ, người được biết đến với bí danh “chú Sáu Dân” thân thương. Đồng chí đã hoạt động cách mạng, gắn bó với mảnh đất, con người Cà Mau.Trên địa bàn tỉnh hiện có 2 di tích lịch sử lưu dấu “chú Sáu Dân” với niềm tri ân, tưởng nhớ của người dân Cà Mau với đồng chí, gồm Di tích cấp tỉnh Nơi ở và Làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt, ở xã U Minh và Di tích Quốc gia đặc biệt Căn cứ Cái Chanh, ở xã Ninh Thạnh Lợi.

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...