Hôm được Nhựt Tân, một người bạn làm bên Trung tâm Văn hoá - Thông tin tỉnh Cà Mau, cho nghe bài hát “Nhà tôi” của Nghệ sĩ Ưu tú - Nhạc sĩ Lê Hoàng Bửu mà Tân mới thu âm, trong tôi, những kỷ niệm tuổi thơ nơi kinh Ông Đơn chợt ùa về.
Hôm được Nhựt Tân, một người bạn làm bên Trung tâm Văn hoá - Thông tin tỉnh Cà Mau, cho nghe bài hát “Nhà tôi” của Nghệ sĩ Ưu tú - Nhạc sĩ Lê Hoàng Bửu mà Tân mới thu âm, trong tôi, những kỷ niệm tuổi thơ nơi kinh Ông Đơn chợt ùa về.
“Rừng xưa, nhà tôi ở đó, có con sông nước chảy hai đầu. Rừng xưa, nhà tôi ở đó, có tiếng mẹ năm tháng ầu ơ! Tiếng hát trôi theo nước ròng nước lớn, bìm bịp kêu bên khóm cây già. Rừng xưa, nhà tôi ở đó, mái lá đơn sơ ấm chiều bếp khói, ánh lửa bập bùng bên câu hát chị tôi, nhớ bữa cơm nghèo thương quá đi thôi…”. Từng lời của bài hát vừa lạ lại vừa quen, bỗng dưng tôi nhớ về quê ngoại, kinh Ông Đơn (thuộc ấp Phú Quý, xã Thanh Tùng, huyện Đầm Dơi), vùng quê giàu truyền thống cách mạng, nơi người dân luôn đoàn kết, gắn bó trong lao động, sản xuất.
MH: MT |
Mẹ tôi thường kể, lúc mẹ còn trẻ, ở kinh Ông Đơn, đất rộng bao la nhưng không có nhiều nóc gia và gần như tất cả đều là bà con họ hàng với nhau. Thời kháng chiến, cả xóm cùng theo cách mạng, thanh niên thì ra tiền tuyến, phụ nữ tham gia giao liên, những người ở lại tổ chức che giấu, nuôi chứa các tổ chức cách mạng hoạt động tại địa phương… Địch thường xuyên dội bom, bố ráp, bắt bớ… Kinh Ông Đơn không có ngày yên ổn. Nhưng người dân nơi đây vẫn luôn bám trụ, một lòng theo Đảng.
“Bến sông, nước ngập tràn bờ, hiu hiu gió bấc lạnh bầm thịt da!..”, nghe gió bấc tôi lại nhớ lời cậu kể về Tết quê thời đó. Từ lúc đưa ông Táo về trời thì cả xóm bắt đầu chộn rộn kéo dài đến tận đêm giao thừa. Cuộc sống nghèo khó nhưng tiếng cười luôn rộn rã. Thanh niên thì đi chài, giăng lưới để bắt cá, tôm về làm khô, hoặc rọng lại để ăn trong mấy ngày Tết. Phụ nữ tính toán làm các loại bánh khéo. Vui nhất là quết bánh phồng. Để quết được ổ bánh cần người có sức khoẻ và sự phối hợp nhịp nhàng nên công việc này là do thanh niên đảm nhiệm. Và thường khi quết bánh phồng, nhiều gia đình liên kết vần công.
Cậu tôi bảo, khoảng đầu tháng Chạp là lúa, nếp đã chín vàng, trĩu hạt. Sau khi thu hoạch đem phơi se nhỏ rồi giê (dùng chiếu để tạo gió) cho thật sạch, cho vào cối xay lấy hạt. Tiếp theo là đổ hạt vào cối đá dùng chày giã sạch, mang đi ngâm trước khi nấu thành xôi để quết bánh phồng.
Lúc đầu, xôi còn nóng dính cối nên người vùa (thường là những phụ nữ đứng tuổi có kinh nghiệm) phải dùng nước đậu xanh thấm tay, đảo liên tục. Lúc xôi đã được giã nhuyễn thì cho nước đường thắng, nước đậu xanh vào đến khi thấy bột bánh đạt yêu cầu, người bắt bánh nhanh chóng vo thành từng viên tròn rồi đưa sang cho người cán bánh. Công đoạn này phải được thực hiện nhanh tay, nếu không bánh bị nguội, cán không ra phải hấp lại, vừa tốn công mà lại ăn không ngon. Cuối cùng, những chiếc bánh phồng tròn xoe được trải lên chiếu lát hoặc mê bồ sạch và đem đi phơi.
Đến chiều 30 Tết, nhà nào cũng đỏ lửa ở một góc sân, trai, gái, trẻ nhỏ cùng quây quần canh chừng nồi bánh tét và chờ thưởng thức chiếc bánh phồng được mẹ nướng. Bánh chín căng phồng, xốp, ngọt, thấm đậm hương vị đồng quê.
Đoạn kết bài hát “Nhớ! Bầy còng gió trên bãi phù sa, với lũ bống sao bên dòng sông cạn. Dòng sông tôi tắm mát ngày nào…”, càng khiến tôi nhớ về vùng quê, nơi tôi được sinh ra trong thời điểm chiến tranh khốc liệt (mùa hè khói lửa 1972). Tôi theo gia đình rời khỏi kinh Ông Đơn khi lên 10 tuổi, tính đến nay đã hơn 30 năm và cũng ngần ấy thời gian phải lo học hành, bận bịu mưu sinh nên tôi chưa có dịp về trở lại nơi chôn nhau cắt rốn.
Tết này, tôi sẽ về thăm quê. Nghe nói, kinh Ông Đơn giờ đây đã chuyển dịch cơ cấu sản xuất, “rừng xưa, mùi đồng cỏ non, liếp chuối, bờ ao, cây dừa toả bóng” và cả bông bồn bồn bung trắng đồng bưng theo mùa gió bấc... đã không còn. Đời sống người dân được nâng lên, “mái lá đơn sơ ấm chiều bếp khói, quê nghèo mấy bận gieo neo…” được thay thế bằng những căn nhà tường kiên cố, lộ thẳng tắp nối liền với trung tâm huyện lỵ Đầm Dơi. Tất cả đã thay đổi so với ký ức ngày xưa của tôi, nhưng chắc một điều, tình làng nghĩa xóm sẽ không phai nhạt theo thời gian, con người nơi đây vẫn sáng ngời truyền thống cách mạng, tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết trên bước đường xây dựng nông thôn mới./.
Xuân Huyền