Thứ sáu, 12-9-25 08:18:57
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Ðội quân kiến vàng

Báo Cà Mau Thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước, một số địa phương ở miền Nam, như Bến Tre, sáng tạo cách đánh giặc bằng hầm chông kết hợp ong vò vẽ, làm cho kẻ địch bao phen bạt vía... Ở Cà Mau, lại có loại vũ khí lợi hại chẳng kém ong vò vẽ, khiến quân nguỵ bị một phen điếng hồn, bỏ chạy, đó là “đội quân kiến vàng”, không phải nuôi và cũng không huấn luyện gì.

Mũi Ông Lục là khu rừng chồi, ngập mặn, sầm uất, với nhiều loại cây tạp, dây leo, cóc kèn, ráng, ô rô... mọc um tùm quanh gốc mắm, bần, vẹt và mấy cây gừa cao to, gie tàn rộng. Có 3 con rạch Xẻo Vẹt Lớn, Xẻo Vẹt Nhỏ và rạch Trảng Chim ngoằn ngoèo trong khu rừng. Suốt những năm chiến tranh, các loại máy bay Mỹ như “đầm già” (L19), trực thăng vũ trang... nhiều trận phóng pháo, oanh kích và các cụm pháo Chi khu Rạch Ráng, Giá Ngự không ngớt bắn phá vào khu rừng Mũi Ông Lục và các vùng xung quanh.

Khu rừng Mũi Ông Lục vẫn tồn tại qua 2 cuộc kháng chiến, đã thành những kỷ niệm, bi hùng, sống động trong ký ức nhiều người.

Ðịa phương quân huyện Cái Nước hành quân qua xóm Tân Phú Thành. Cùng một đêm này, ta tấn công 2 đồn Quản Phú và Thứ Vãi nằm trên tuyến phòng thủ, bảo vệ đặc khu Bình Hưng. (Ảnh tư liệu)

Thời luật 10/59, tên Quến ở Bến Ðìa, đầu sỏ, dẫn hàng trăm lực lượng “tự vệ hương thôn” (tổ chức bán võ trang của Ngô Ðình Diệm) càn vào khu rừng Mũi Ông Lục, đập phá, đốt chòi căn cứ của cán bộ Huyện uỷ Cái Nước. Chúng dùng cây chọc thủng bồn chứa nước mưa và lấy gạo cho xuống bùn... Tên Quến thúc tốp “tự vệ hương thôn” tràn qua rạch vây bắt, giựt súng cán bộ ta, đã bị anh Ba Tài (sau này là Phó bí thư Huyện uỷ Cái Nước) bắn hạ.

Anh Lê Hữu Nghiêm (Út Rô) năm 1959 là chàng trai 20 tuổi cùng gần chục anh chị em Chi uỷ, Chi đoàn xã Tân Hưng Ðông bị lính giặc Chi khu Cái Nước kết hợp “tự vệ hương thôn” bao vây, lùng bắt... Suốt cả ngày lẩn tránh ở vùng đất bồn bồn, bông súng, thuộc đất chú Tư Mên, Năm Nhịn (ấp Trần Mót), bị đói lả. Ai nấy tự nhổ củ bồn bồn nhai “cầm hơi”.

Xế chiều, các anh chị “mở đường máu” thoát vòng vây của địch, về đến ven rừng Mũi Ông Lục. Dù đói, khát, mệt lả nhưng người nào mặt mày cũng tươi rói, cười tươi mà không được nói lớn tiếng. Ðịch không tài nào theo kịp dấu chân các anh chị để bắt những “cán bộ Việt cộng nằm vùng”, như chúng đã la hét inh ỏi đồng Trần Mót.

Mỗi người xúm làm một việc: càn, đạp sậy tạo mặt bằng; kiếm cây dựng sườn, dùng những sợi mây vóc căng dọc căng ngang, phủ cao su lên... Sau khi lều tạm dựng xong, anh Út và anh Bảy Sao còn trẻ, khoẻ, được giao việc ra bìa rừng “thám thính” tình hình và kiếm củi nhánh khô về nấu cháo...

Hai người ngồi nghỉ dưới gốc bình bát, hút thuốc. Có lẽ đây là nơi tránh nắng của những người làm rẫy... Anh Bảy Sao liếc nhìn, bỗng phát hiện bờ bên kia có 2 trái bí rợ ngay bụi ráng. Thế là 2 anh mỗi người ôm 1 trái về “cứ” nấu ăn đỡ đói chiều nay...

Trưa hôm sau, anh Út và anh Bảy Sao men theo bờ hậu rẫy nghe ngóng tình hình, nếu không có gì “động” thì vào xóm gặp bà con... Ðằng bụi bình bát có mấy bóng người. Hai anh dừng lại dò xét: Bà con làm rẫy hoặc tránh giặc? Anh Bảy Sao đi trước, anh Út từ từ theo sau... Ðến chỗ mấy chú ngồi dưới gốc bình bát, anh Bảy Sao vừa cất tiếng: “Thưa mấy chú...” đã được niềm nở, gọi:

- Lại đây, lại đây! Mấy chú chờ các cháu lâu rồi, ngồi xuống.

Dáng vóc những người đứng tuổi này có vẻ hiền từ, chất phác. Cả 3 người đều mặc bà ba đen, vải hột dền. Tay áo ngấm phèn, chiếc quần dài khỏi đầu gối cũng ngấm phèn. Hai anh quây quần bên các lão nông... Chú Bảy Lợi vóc người nhỏ nhắn, vầng trán cao và rộng, giọng nói chậm rãi mà chắc nịch:

- Giới thiệu cho mấy em biết, đây là chú Tư Dần, nhà ở ngoài bờ sông, gần nhà của chú. Còn ông này là chú Hai Ngoan (anh ruột của chú Tư Dần), nhà gần đập Xẻo Tra đằng kia! Mấy anh em tôi vào đây làm rẫy mấy mùa rồi, chưa hề mất trộm một trái bắp, một củ khoai...

Anh Bảy Sao tiếp lời:

- Hôm qua, 2 cháu đây cùng 7-8 anh chị em thoát vòng vây của địch ở cánh đồng ông Một Hồ, từ đìa ớt về đây... Tại gốc bình bát này, 2 anh em ngồi nghỉ mệt. Ðói, khát cả ngày. Chục người chỉ còn vài lon gạo... Rồi 2 cháu thấy 2 trái bí rợ, không biết của ai, đánh liều ôm về nấu trộn với gạo ăn đỡ lòng, sau sẽ tìm đến gặp cô bác nhận lỗi...

Chú Tư Dần cười, ngắt lời Bảy Sao:

- Ðúng là có lỗi quá còn gì? Mấy em có lẽ được cách mạng dạy dỗ “không được động đến cây kim sợi chỉ của dân”, vậy mà 2 người “cõng” hết 2 trái bí của bà con ở đây mà không dám cho hay sớm. 2 trái bí rợ đó là của ông Bảy này nè! Phải liên hệ được các cháu sớm thì cuộn luôn rẫy bí của ổng mang về cho anh em ăn no thì 2 cháu đâu có lỗi...

Chú Hai Ngoan phụ hoạ thêm:

- Chú Tư nói đúng đó! Lỗi của 2 cháu là không liên hệ sớm với bà con xóm này để nắm tin tức, rồi bà con báo tin bên ngoài cho anh em biết và còn cung cấp gạo thóc cho anh em bên trong kịp thời mới phải... Sáng nay, mấy chú thấy 2 trái bí “biến mất”, mừng trong bụng, biết chắc anh em mình còn tồn tại... Mấy tháng trước, bọn thằng Kèm, thằng Quến dẫn lính lùng sục vào rừng Mũi Ông Lục này tìm gặp “cứ” của anh em cán bộ, lục soát thấy mấy thùng gạo, chúng đổ ra vung vãi dưới chân rừng...

Chúng nó hí hửng lắm! “Việt cộng nằm vùng” sẽ bị tiêu diệt bằng đạo luật 10/59.

Chúng nó đã bị đền tội. Và cái kho gạo đang nằm ở trong lòng dân thì chúng làm sao cướp phá hết được. Hai cháu đến dưới gốc bụi ráng có 2 trái bí rợ hôm qua, lấy 2 thùng gạo của mấy chú chôn giấu ở đó. Mấy cháu nhớ tìm cho kỹ và tới đây thường để liên hệ với bà con...

Và, trong đời anh Lê Hữu Nghiêm (Út Rô) mãi không quên kỷ niệm với câu chuyện những trái bí rợ và hạt gạo nghĩa tình ở điểm hẹn Mũi Ông Lục này trong những tháng năm đen tối, khốc liệt nhất.

Bà con ở Giáp Nước còn nhớ hình ảnh chú Sáu Nguyên (1918), cán bộ Huyện uỷ Cái Nước, với khẩu súng ngắn oai phong, có bảo vệ, hoạt động bí mật sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954... Cảnh gia đình ly tán, trong lúc vợ con bị giặc lùa ra khu tập trung ở Bà Hính, quân giặc quận Cái Nước lại càn quét, đánh phá vào căn cứ Mũi Ông Lục; chú xông lên cùng anh em chiến đấu bằng khẩu súng ngắn, bắn đến viên đạn cuối cùng và hy sinh lạnh lẽo trong khu rừng cuối năm 1959.

Ðầu những năm 60, anh Tám Thậm là Trưởng đài Minh ngữ của bộ phận Thông tấn trực thuộc Ban Tuyên huấn tỉnh Cà Mau, làm việc trong căn chòi cặp bìa rừng Mũi Ông Lục, hằng ngày vào nhà dân trên bờ sông Giáp Nước, chỉ ăn 1 bữa cơm trưa rồi trở ra làm việc tới chiều tối (1962-1964)... (Anh Tám Thậm, tức Ðại tá Trần Phương Thế, Phó giám đốc Công an tỉnh Cà Mau, Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân sau này...).

Sau Mậu Thân 1968, giặc ráo riết phản kích quyết liệt... Năm 1969, trận đánh giặc đổ quân xuống Giáp Nước, quân ta bắn rơi 1 chiếc trực thăng, bốc cháy và cắm đầu xuống rạch Trảng Chim, một tên phi công Mỹ bị chết cháy nhăn răng... Nữ Nhà báo Hồng Nhiên kịp lội ra hiện trường và tận mắt chứng kiến. Khi viết bài đăng báo Cà Mau, Hồng Nhiên tả chi tiết này: "Tên phi công Mỹ bị chết cháy nhăn răng như răng rùa...". Ngỡ rùa có răng, chị liên tưởng vậy. Năm ấy, Nhà báo Nguyễn Mai gọi Hồng Nhiên là “Chị Hai răng rùa”...

Trải qua bao mưa bom bão đạn, cánh rừng Mũi Ông Lục vẫn tồn tại, sừng sững, thách thức với thời gian và càng trở nên sầm uất - nơi xây tổ ấm cho các loại chim cò, ong mật, ong ruồi và các loại kiến tha hồ sinh sôi nẩy nở, đáng sợ là “đội quân kiến vàng”...

Năm 1973, tôi với Hải “khắc gỗ” ở bộ phận báo Cà Mau vào rừng Mũi Ông Lục cốt một cây gừa tủa nhiều gốc bự chở về cắt khúc, bửa củi trải phơi đầy sân, đầy bờ, từng bị kiến vàng, kiến hôi đeo bám đầy đầu, cổ giữa trưa nắng nóng...

***

Thời kỳ khó khăn, gian khổ, giặc “bình định” đánh phá ác liệt... Vào mùa nước năm 1971, chúng cho một bầy “cá nhái” (máy bay trực thăng) đổ quân xuống cánh đồng kinh Chống Mỹ, ấp Giáp Nước, xã Phú Mỹ (Cái Nước), mở trận càn quét, hòng chọc thủng khu rừng Mũi Ông Lục để “tìm diệt Việt cộng”. Cả tiểu đoàn thuộc Sư 21 nguỵ hùng hổ lội càn vô rừng, nhưng khoảng vài công đất, chúng phải tháo lui trở ra và vang dậy tiếng chửi thề... Việt cộng đâu không thấy, chỉ thấy vô số kiến vàng đeo khắp đầu, cổ...

Quả là bom tấn, pháo bầy không tiêu diệt hết kiến vàng... Nhiều tên lính giặc, cả những thằng chỉ huy, tên nào tên nấy nhễ nhại mồ hôi, mặt mày lửa đốt. Chúng lớp bị gai ráng cản, quàu xướt lúc đang sa lầy tới háng, lớp bị kiến vàng đeo bám không còn chỗ phủi; nhất là bị kiến “tấn công” vào cổ và da non, thì phủi sao cho xiết... Hàng trăm tên giặc phải vứt bỏ lựu đạn, từng cặp tuýt-xe đạn đang mang trên mình cho nhẹ bớt để dễ bề lội nước, tháo lui...

Khi quân giặc Sư 21 rút chạy sạch, anh em du kích và thanh niên xóm Khâu Bè - Lung Xẻo Tra kéo ra tuyến rừng ráng dọc dài cặp theo bìa rừng Mũi Ông Lục, phát hiện và thu gom chiến lợi phẩm từ “đội quân kiến vàng” mà có. Lượm từng trái lựu đạn mê như hái bần, vớt từng cặp tuýt-xe đạn khoái như bắt được tôm, cua, cá bự... Ông Nguyễn Ngọc Ẩn (Tám Ấn), một cựu chiến binh ấp Giáp Nước, hồi năm 1999, cười ngất, nhớ rành rọt: "Lựu đạn và các loại đạn, cả một số quân dụng thu được, chở gần đầy chiếc xuồng be mười!".

Cái Nước, 4/2024

 

Nguyễn Minh

 

Dấu ấn hoạt động đồng chí Võ Văn Kiệt tại Cà Mau

Ðồng chí Võ Văn Kiệt - nguyên Thủ tướng Chính phủ, người được biết đến với bí danh “chú Sáu Dân” thân thương. Đồng chí đã hoạt động cách mạng, gắn bó với mảnh đất, con người Cà Mau.Trên địa bàn tỉnh hiện có 2 di tích lịch sử lưu dấu “chú Sáu Dân” với niềm tri ân, tưởng nhớ của người dân Cà Mau với đồng chí, gồm Di tích cấp tỉnh Nơi ở và Làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt, ở xã U Minh và Di tích Quốc gia đặc biệt Căn cứ Cái Chanh, ở xã Ninh Thạnh Lợi.

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...

Quốc khánh trong ký ức Mẹ Việt Nam anh hùng

80 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về ngày 2/9/1945 vẫn rực sáng trong lòng dân tộc. Giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh cất cao lời Tuyên ngôn độc lập đã khiến hàng triệu trái tim Việt Nam vỡ oà, từ thân phận nô lệ trở thành người tự do. Với các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) ở Cà Mau, ký ức về ngày Quốc khánh đầu tiên ấy mãi là niềm tự hào thiêng liêng, theo suốt cả cuộc đời.

Lê Khắc Xương - Nhà lãnh đạo kiên trung

Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở vùng đất cực Nam Tổ quốc, cách Hà Nội hàng ngàn cây số, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau) đã giành chính quyền chỉ sau Thủ đô Hà Nội 4 ngày. Ðằng sau thắng lợi ấy có vai trò quyết định của đồng chí Lê Khắc Xương, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh khu vực Bạc Liêu - nhà lãnh đạo kiên trung, người đảng viên mẫu mực.

Nghĩ về ba bản tuyên ngôn

Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 2: Tìm hài cốt liệt sĩ nơi xứ người

Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ được Đảng, Nhà nước, Quân đội và thân nhân liệt sĩ được tăng cường, bất kể thời tiết, địa hình trắc trở. Dẫu lắm vất vả, gian truân nhưng là hành trình tri ân về tình đồng đội, nghĩa đồng bào.