ĐT: 0939.923988
Thứ ba, 29-7-25 06:43:17
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Giữ vững biên giới Tây Nam

Báo Cà Mau Cách đây 45 năm, vào năm 1978, những người con của Minh Hải tiếp tục chiến đấu để bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc ở địa bàn Trà Phô, xã Phú Mỹ, huyện Hà Tiên (nay là huyện Giang Thành), tỉnh Kiên Giang. Với tinh thần dũng cảm, gan dạ, Tiểu đoàn Bộ binh 3 Minh Hải quyết giữ vững trận địa, giành lại từng công sự, từng đoạn hào và đẩy lùi nhiều đợt tiến công của địch.

Chiến đấu sau giải phóng

Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ngày 30/4/1975 kết thúc thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến trường kỳ của Nhân dân Việt Nam. Lực lượng vũ trang phần lớn rời chiến trường, về địa phương sum họp gia đình, xây dựng cuộc sống mới; chỉ còn một lực lượng nhỏ bảo vệ an ninh quốc gia, trong đó có lực lượng vũ trang Minh Hải (nay là hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu).

Bọn phản động Khmer Ðỏ tiến hành cuộc chiến tranh biên giới Việt Nam - Campuchia, ý đồ diệt chủng cả hai nước. Chúng giết hại dân thường ở đảo Thổ Chu (Kiên Giang), ở Tân Lập (huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh), đáng căm phẫn là ngày 18/4/1978, Pol Pot thảm sát hơn 3 ngàn người ở Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang...

Ðảng, Nhà nước, Quân đội, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 chỉ đạo khẩn trương củng cố, phát triển lực lượng vũ trang, kiên quyết chiến đấu bảo vệ vững chắc biên giới Tây Nam Tổ quốc. Ngày 10/3/1978, tỉnh Minh Hải thành lập Tiểu đoàn Bộ binh 3 tại khu Bình Hưng (nay là xã Tân Hải, huyện Phú Tân). Sau đó vận động tân binh ở các huyện Giá Rai, Vĩnh Lợi về đóng quân ở xã Vĩnh Trạch, thị xã Bạc Liêu (nay là TP Bạc Liêu). Tiểu đoàn Bộ binh 3 có 350 đồng chí, biên chế thành 5 bộ phận, gồm 3 đại đội bộ binh, 1 đại đội trợ chiến và bộ phận tiểu đoàn bộ.

Bộ đội tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia phối hợp luyện tập, nâng cao kỹ thuật chiến đấu. (Ảnh tư liệu).

Ban Chỉ huy Tiểu đoàn Bộ binh 3 có đồng chí Ba Ðức, Tiểu đoàn trưởng; đồng chí Ba Thảo, Chính trị viên; đồng chí Tám Hùng, Tiểu đoàn phó; đồng chí Tám Nghĩa, Chính trị viên phó; đồng chí Minh Ba, Tiểu đoàn phó và đồng chí Sáu Hạnh, Tham mưu trưởng. Ðơn vị tiến hành huấn luyện cấp tốc về chiến thuật, kỹ thuật cho bộ đội. Ðến ngày 16/10/1978, Tiểu đoàn được lệnh chi viện cho tỉnh Kiên Giang.

Tiểu đoàn Bộ binh 3 Minh Hải tiếp nhận trận địa phòng ngự trên địa hình đầy nước do trận lụt lịch sử năm 1978 chưa rút. Với sự đoàn kết thống nhất cao, lực lượng khắc phục mọi khó khăn, ngày đêm xây dựng hoàn thành trận địa phòng ngự, cắt đứt tuyến đường huyết mạch của địch tiến công bằng bộ binh vào hướng Nhà máy Xi măng Hà Tiên. Ðại đội Bộ binh 1, Tiểu đoàn Bộ binh 3 phòng ngự điểm kênh Cỏ Que nối liền giữa Trà Phô với Trà Ten; cùng chiến đấu có Tiểu đoàn địa phương quân huyện Trần Văn Thời và Tiểu đoàn địa phương quân huyện Vĩnh Lợi.

Mưu trí, dũng cảm, lập nhiều chiến công

Sáng 29/11/1978, địch tấn công vào trận địa phòng ngự của Tiểu đoàn huyện Vĩnh Lợi, cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, do hoả lực địch quá mạnh nên lực lượng tạm lui về phòng ngự tuyến 2. Chiều cùng ngày, địch tiếp tục tấn công, cán bộ, chiến sĩ trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Khi địch đến gần, cả trận địa đồng loạt nổ súng diệt trên 100 tên địch trước công sự; ngăn chặn tại chỗ, làm cho đội hình địch rối loạn, đẩy lùi 2 đại đội địch ra khỏi trận địa.

Ðại tá Nguyễn Xuân Hùng, nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Bộ binh 3 Minh Hải, kể: "Trong chiến đấu, nổi lên nhiều tấm gương sáng về lòng dũng cảm, đức hy sinh như: sự chỉ huy khôn khéo của đồng chí Ba Khởi, Chính trị viên Ðại đội Bộ binh 2; đồng chí Lê Minh Ngọc, Ðại đội phó Ðại đội Bộ binh 2, bị thương nặng nhưng không rời trận địa, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng; đồng chí Võ Hoàng Việt bắn 30 phát B40 và nhiều loại vũ khí khác nhau để giữ vững trận địa; đồng chí Phạm Thanh Bình bắn 50 phát ÐK75 ra máu lỗ tai; đồng chí Phan Thanh Xuân, Ðại đội Bộ binh 3 bị thương nặng, dùng dao cắt bỏ chân để tiếp tục chỉ huy chiến đấu...".

Thế địch mạnh nhưng không thắng nổi sự mưu trí, kiên cường của cán bộ, chiến sĩ các lực lượng. Sáng 8/12/1978, địch bất ngờ tập kích vào trận địa phòng ngự. Tiểu đoàn Bộ binh 3 và Tiểu đoàn địa phương quân huyện Trần Văn Thời nhanh chóng lập tuyến phòng ngự thứ 2, kiên quyết ngăn chặn không cho địch phát triển, cắt đứt lực lượng phía sau lên, khôi phục thành công trận địa phòng ngự.

Sau 2 tháng phòng ngự, Tiểu đoàn Bộ binh 3 cùng các lực lượng chiến đấu trên 20 trận, tiêu hao, tiêu diệt hơn 2 trung đoàn địch, bắn chết và bị thương hơn 1 ngàn tên địch, thu trên 100 súng các loại, bảo vệ vững chắc biên giới Tây Nam của Tổ quốc và sẵn sàng nhận nhiệm vụ tiếp theo. Nhận được mệnh lệnh khẩn cấp, ngày 1/1/1979, Tiểu đoàn Bộ binh 3 tiến công lên Giồng Kè, sau đó đánh sang Campuchia. Ban Chỉ huy Tiểu đoàn tổ chức lại đội hình chuyển từ chiến thuật phòng ngự sang chiến thuật vận động tiến công.

Ngày 7/1/1979, cùng với các lực lượng vũ trang đồng loạt tiến công giúp bạn giải phóng Campuchia, Tiểu đoàn Bộ binh 3 đánh chiếm ngã ba Cần Thoa, huyện Kampong Trach, tỉnh Kampot, sau đó đánh sang thị xã Túc Mía.

Ðại tá Nguyễn Xuân Hùng cho biết: "Ðầu tháng 2/1979, biên giới phía Bắc bị quân đội Trung Quốc tấn công, Tiểu đoàn Bộ binh 3 nhận được lệnh rút quân về nước; một bộ phận Tiểu đoàn Bộ binh 3 tách - thành lập Tiểu đoàn Bộ binh 1 Minh Hải, ra biên giới phía Bắc, phối hợp đánh bại âm mưu lấn chiếm biên giới của Trung Quốc. Tiểu đoàn Bộ binh 3 tiếp tục củng cố lực lượng làm nhiệm vụ cơ động của tỉnh, bảo vệ quốc phòng trên địa bàn tỉnh Minh Hải, ngăn chặn nhập biên của các đối tượng phản động từ nước ngoài về móc nối chống phá cách mạng Việt Nam".

Nhìn lại lịch sử, Tiểu đoàn Bộ binh 3 Minh Hải từ ngày thành lập và suốt quá trình xây dựng, huấn luyện chiến đấu luôn phát huy tốt truyền thống Bộ đội Cụ Hồ, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và giúp nước bạn Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng, góp phần tô điểm truyền thống của Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng, truyền thống của Ðảng bộ, Nhân dân Cà Mau anh hùng./.

 

Mộng Thường

 

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.