ĐT: 0939.923988
Thứ năm, 21-11-24 22:56:51
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Giữ vững biên giới Tây Nam

Báo Cà Mau Cách đây 45 năm, vào năm 1978, những người con của Minh Hải tiếp tục chiến đấu để bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc ở địa bàn Trà Phô, xã Phú Mỹ, huyện Hà Tiên (nay là huyện Giang Thành), tỉnh Kiên Giang. Với tinh thần dũng cảm, gan dạ, Tiểu đoàn Bộ binh 3 Minh Hải quyết giữ vững trận địa, giành lại từng công sự, từng đoạn hào và đẩy lùi nhiều đợt tiến công của địch.

Chiến đấu sau giải phóng

Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ngày 30/4/1975 kết thúc thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến trường kỳ của Nhân dân Việt Nam. Lực lượng vũ trang phần lớn rời chiến trường, về địa phương sum họp gia đình, xây dựng cuộc sống mới; chỉ còn một lực lượng nhỏ bảo vệ an ninh quốc gia, trong đó có lực lượng vũ trang Minh Hải (nay là hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu).

Bọn phản động Khmer Ðỏ tiến hành cuộc chiến tranh biên giới Việt Nam - Campuchia, ý đồ diệt chủng cả hai nước. Chúng giết hại dân thường ở đảo Thổ Chu (Kiên Giang), ở Tân Lập (huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh), đáng căm phẫn là ngày 18/4/1978, Pol Pot thảm sát hơn 3 ngàn người ở Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang...

Ðảng, Nhà nước, Quân đội, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 chỉ đạo khẩn trương củng cố, phát triển lực lượng vũ trang, kiên quyết chiến đấu bảo vệ vững chắc biên giới Tây Nam Tổ quốc. Ngày 10/3/1978, tỉnh Minh Hải thành lập Tiểu đoàn Bộ binh 3 tại khu Bình Hưng (nay là xã Tân Hải, huyện Phú Tân). Sau đó vận động tân binh ở các huyện Giá Rai, Vĩnh Lợi về đóng quân ở xã Vĩnh Trạch, thị xã Bạc Liêu (nay là TP Bạc Liêu). Tiểu đoàn Bộ binh 3 có 350 đồng chí, biên chế thành 5 bộ phận, gồm 3 đại đội bộ binh, 1 đại đội trợ chiến và bộ phận tiểu đoàn bộ.

Bộ đội tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia phối hợp luyện tập, nâng cao kỹ thuật chiến đấu. (Ảnh tư liệu).

Ban Chỉ huy Tiểu đoàn Bộ binh 3 có đồng chí Ba Ðức, Tiểu đoàn trưởng; đồng chí Ba Thảo, Chính trị viên; đồng chí Tám Hùng, Tiểu đoàn phó; đồng chí Tám Nghĩa, Chính trị viên phó; đồng chí Minh Ba, Tiểu đoàn phó và đồng chí Sáu Hạnh, Tham mưu trưởng. Ðơn vị tiến hành huấn luyện cấp tốc về chiến thuật, kỹ thuật cho bộ đội. Ðến ngày 16/10/1978, Tiểu đoàn được lệnh chi viện cho tỉnh Kiên Giang.

Tiểu đoàn Bộ binh 3 Minh Hải tiếp nhận trận địa phòng ngự trên địa hình đầy nước do trận lụt lịch sử năm 1978 chưa rút. Với sự đoàn kết thống nhất cao, lực lượng khắc phục mọi khó khăn, ngày đêm xây dựng hoàn thành trận địa phòng ngự, cắt đứt tuyến đường huyết mạch của địch tiến công bằng bộ binh vào hướng Nhà máy Xi măng Hà Tiên. Ðại đội Bộ binh 1, Tiểu đoàn Bộ binh 3 phòng ngự điểm kênh Cỏ Que nối liền giữa Trà Phô với Trà Ten; cùng chiến đấu có Tiểu đoàn địa phương quân huyện Trần Văn Thời và Tiểu đoàn địa phương quân huyện Vĩnh Lợi.

Mưu trí, dũng cảm, lập nhiều chiến công

Sáng 29/11/1978, địch tấn công vào trận địa phòng ngự của Tiểu đoàn huyện Vĩnh Lợi, cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, do hoả lực địch quá mạnh nên lực lượng tạm lui về phòng ngự tuyến 2. Chiều cùng ngày, địch tiếp tục tấn công, cán bộ, chiến sĩ trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Khi địch đến gần, cả trận địa đồng loạt nổ súng diệt trên 100 tên địch trước công sự; ngăn chặn tại chỗ, làm cho đội hình địch rối loạn, đẩy lùi 2 đại đội địch ra khỏi trận địa.

Ðại tá Nguyễn Xuân Hùng, nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Bộ binh 3 Minh Hải, kể: "Trong chiến đấu, nổi lên nhiều tấm gương sáng về lòng dũng cảm, đức hy sinh như: sự chỉ huy khôn khéo của đồng chí Ba Khởi, Chính trị viên Ðại đội Bộ binh 2; đồng chí Lê Minh Ngọc, Ðại đội phó Ðại đội Bộ binh 2, bị thương nặng nhưng không rời trận địa, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng; đồng chí Võ Hoàng Việt bắn 30 phát B40 và nhiều loại vũ khí khác nhau để giữ vững trận địa; đồng chí Phạm Thanh Bình bắn 50 phát ÐK75 ra máu lỗ tai; đồng chí Phan Thanh Xuân, Ðại đội Bộ binh 3 bị thương nặng, dùng dao cắt bỏ chân để tiếp tục chỉ huy chiến đấu...".

Thế địch mạnh nhưng không thắng nổi sự mưu trí, kiên cường của cán bộ, chiến sĩ các lực lượng. Sáng 8/12/1978, địch bất ngờ tập kích vào trận địa phòng ngự. Tiểu đoàn Bộ binh 3 và Tiểu đoàn địa phương quân huyện Trần Văn Thời nhanh chóng lập tuyến phòng ngự thứ 2, kiên quyết ngăn chặn không cho địch phát triển, cắt đứt lực lượng phía sau lên, khôi phục thành công trận địa phòng ngự.

Sau 2 tháng phòng ngự, Tiểu đoàn Bộ binh 3 cùng các lực lượng chiến đấu trên 20 trận, tiêu hao, tiêu diệt hơn 2 trung đoàn địch, bắn chết và bị thương hơn 1 ngàn tên địch, thu trên 100 súng các loại, bảo vệ vững chắc biên giới Tây Nam của Tổ quốc và sẵn sàng nhận nhiệm vụ tiếp theo. Nhận được mệnh lệnh khẩn cấp, ngày 1/1/1979, Tiểu đoàn Bộ binh 3 tiến công lên Giồng Kè, sau đó đánh sang Campuchia. Ban Chỉ huy Tiểu đoàn tổ chức lại đội hình chuyển từ chiến thuật phòng ngự sang chiến thuật vận động tiến công.

Ngày 7/1/1979, cùng với các lực lượng vũ trang đồng loạt tiến công giúp bạn giải phóng Campuchia, Tiểu đoàn Bộ binh 3 đánh chiếm ngã ba Cần Thoa, huyện Kampong Trach, tỉnh Kampot, sau đó đánh sang thị xã Túc Mía.

Ðại tá Nguyễn Xuân Hùng cho biết: "Ðầu tháng 2/1979, biên giới phía Bắc bị quân đội Trung Quốc tấn công, Tiểu đoàn Bộ binh 3 nhận được lệnh rút quân về nước; một bộ phận Tiểu đoàn Bộ binh 3 tách - thành lập Tiểu đoàn Bộ binh 1 Minh Hải, ra biên giới phía Bắc, phối hợp đánh bại âm mưu lấn chiếm biên giới của Trung Quốc. Tiểu đoàn Bộ binh 3 tiếp tục củng cố lực lượng làm nhiệm vụ cơ động của tỉnh, bảo vệ quốc phòng trên địa bàn tỉnh Minh Hải, ngăn chặn nhập biên của các đối tượng phản động từ nước ngoài về móc nối chống phá cách mạng Việt Nam".

Nhìn lại lịch sử, Tiểu đoàn Bộ binh 3 Minh Hải từ ngày thành lập và suốt quá trình xây dựng, huấn luyện chiến đấu luôn phát huy tốt truyền thống Bộ đội Cụ Hồ, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và giúp nước bạn Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng, góp phần tô điểm truyền thống của Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng, truyền thống của Ðảng bộ, Nhân dân Cà Mau anh hùng./.

 

Mộng Thường

 

Những "ngôi nhà cách mạng"

Thời chiến tranh chống giặc ngoại xâm, Cà Mau là căn cứ địa đặc biệt quan trọng đối với phong trào cách mạng cả nước. Từ thành thị đến làng rừng có rất nhiều địa điểm ghi dấu ấn, nay là di tích lịch sử cách mạng.

Chuyện xin giống cây vú sữa trồng ở Phủ thờ Bác

Tại Phủ thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, xã Trí Lực, huyện Thới Bình (mọi người thường gọi thân thương là “Phủ thờ Bác xã Trí Lực”), hiện có cây vú sữa được nhân giống từ cây vú sữa của má Lê Thị Sảnh (Ấp 10, xã Trí Phải, huyện Thới Bình) gửi Tiểu đoàn 307 mang ra miền Bắc tặng Bác Hồ trên chuyến tàu tập kết năm 1954. Cây vú sữa này cũng đã cho trái từ mấy chục năm qua, khắc sâu thêm tình cảm thiêng liêng của người dân Cà Mau đối với Bác. Thế nhưng, chuyện xin cây vú sữa mang về trồng như thế nào và từ khi nào, cũng là thắc mắc của nhiều người.

Vụ thảm sát Cái Sắn qua lời kể của nhân chứng U100

Ông Phạm Văn Quang (Hai Quang), Chủ tịch Hội Khuyến học huyện Thới Bình, là người tâm huyết với công tác khuyến học, hầu như khóm, ấp nào trong huyện cũng có bước chân ông. Một hôm, ông phấn khởi điện cho tôi: “Chú biết có ông cụ này tuổi hơn 90, còn minh mẫn lắm, biết rất nhiều chuyện xưa của vùng đất Thới Bình, trong đó có vụ thảm sát ở Cái Sắn. Sắp xếp rồi chú đưa đi gặp cụ”.

Việt Nam trân trọng độc lập, phát triển bền vững

Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trước quốc dân, đồng bào và toàn thế giới ngày 2/9/1945 đã khẳng định Việt Nam là một quốc gia tự do, độc lập. Ở đó người dân có quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc… Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…

Tự hào 79 mùa thu lịch sử

Cách đây 79 năm, với thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Ðộc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, ngày 2/9/1945 trở thành ngày Tết độc lập đầu tiên của Tổ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh - thời đại của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước với ánh sáng chân lý của sự nghiệp cách mạng mà Bác Hồ và Ðảng ta soi đường, dẫn lối. Một mùa thu vạch ngang lịch sử, được lịch sử lựa chọn để đi vào bất tử.

Tri ân hai vị lãnh đạo nghĩa quân

Những ngày tháng Tám lịch sử, chúng tôi có dịp tháp tùng cùng Nhà báo Ðỗ Văn Nghiệp (Sáu Sơn), hiện là Chủ nhiệm Câu lạc bộ Kể chuyện lịch sử (do Bảo tàng tỉnh thành lập) về thăm, thắp hương tại Khu tưởng niệm hai lãnh đạo nghĩa quân, Ðỗ Thừa Luông - Ðỗ Thừa Tự (toạ lạc tại ấp Bùng Binh, xã Hoà Thành, TP Cà Mau) - Di tích lịch sử cấp tỉnh.

Món quà nghĩa tình tri ân mẹ

Thiêng liêng gì bằng Tổ quốc và mẹ. Mẹ đã cống hiến tuổi xuân, tài sản lớn nhất là chồng, là con cho Tổ quốc. Bằng tấm lòng tôn kính, cảm phục, việc xuất bản quyển kỷ yếu "Bà mẹ Việt Nam anh hùng tỉnh Cà Mau” thể hiện trách nhiệm và là món quà mang nặng nghĩa tình của Ðảng bộ và Nhân dân tỉnh Cà Mau gửi đến các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) còn sống, thay nén tâm hương dâng lên những mẹ đã khuất.

Chuyện về liệt sĩ nằm lại vùng đất lửa

Cách đây 5 năm, trong chuyến về nguồn cùng Tỉnh đoàn Cà Mau, đó là lần thứ 3 tôi được đặt chân đến Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn (tỉnh Quảng Trị). Mang theo tấm lòng của người con miền Nam đến thắp nén tâm hương cho những vị anh hùng của Tổ quốc, như một sự tình cờ kỳ diệu, giữa hơn 10 ngàn ngôi mộ liệt sĩ nằm lại ở vùng đất lửa, đoàn chúng tôi bất ngờ tìm được một phần mộ đặc biệt. Ðó chính là nơi an nghỉ của Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Xinh, quê tại xã Tân Lộc, huyện Thới Bình.

Những địa chỉ thiêng liêng

Trong 2 cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, lớp lớp những người con Cà Mau lên đường đánh giặc, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Ðể đổi lấy ngày độc lập, chỉ trên quê hương Cà Mau đã có 17.678 liệt sĩ, 16.467 thương binh, 2.510 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, gần 17 ngàn người đang hưởng trợ cấp hằng tháng.

Làm đẹp địa chỉ đỏ

Trải qua hai cuộc chiến tranh ác liệt, xương máu của lớp lớp thế hệ ông cha đã thấm đẫm trên từng tấc đất quê hương. Ðể tưởng nhớ công ơn các anh hùng liệt sĩ, tại các xã, thị trấn trong huyện Ngọc Hiển đều xây dựng các đài tưởng niệm, nhà bia ghi danh liệt sĩ. Những công trình này vừa thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, vừa góp phần giáo dục truyền thống cách mạng vẻ vang của dân tộc cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.