ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 29-6-25 12:15:07
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Khắc khoải đồng đội ơi!

Báo Cà Mau (CMO) Có những mất mát đau thương đã bật thành lời thơ, ý nhạc. Ðó cũng là tiếng lòng của những người đồng đội dành cho đồng đội mình.

“Tôi gọi mãi sao đồng đội không thưa. Mà mưa cứ rơi, gió cứ gào cứ thét. Mà cứ thẳng hàng ngang hàng dọc. Hết giặc rồi sao không dậy mà vui...”. Cách đây mấy năm, tình cờ tôi được nghe những câu hát này ở loa truyền thanh trên đường. Hình như đó là dịp tri ân các anh hùng liệt sĩ. Tự nhiên thấy lòng xốn xang, se thắt.

Về nhà mở mạng tìm hiểu được biết, đó là bài "Ðồng đội ơi", thơ của Trương Vĩnh Tuấn, nhạc Nguyễn Giang. Cả hai đều là những người lính, từng tham gia chiến đấu trên chiến trường miền Trung - Tây Nguyên đạn bom ác liệt ngày nào. Hoà bình, họ may mắn còn sống trở về, thế nhưng lòng vẫn đau đáu nỗi nhớ thương những người đồng đội thân yêu đã mãi ra đi vì đất nước.

Có sở trường về chữ nghĩa, Trương Vĩnh Tuấn đã bày tỏ nỗi niềm qua những câu thơ. Còn Nguyễn Giang, một lần tình cờ bắt gặp những tâm tình ấy, cứ ngỡ đó là lời lẽ viết cho mình, nói hộ lòng mình nên lập tức phổ nhạc bài thơ. Cây nhang thắp lên vái lạy đồng đội vừa tàn, khói hương còn bảng lảng thì bài hát đã hoàn thành. Và có lẽ, vì nói được nỗi đau thương mất mát của những người lính bước ra từ cuộc chiến mà bài hát nhanh chóng lan truyền rộng rãi trong các cựu chiến binh trên khắp mọi miền đất nước.

Tôi nhiều lần nghe đi nghe lại bài hát mà cảm xúc vẫn trào dâng. Tiếng gọi “Ðồng đội ơi” cứ cất lên thiết tha, da diết. Cùng với đó là điệp khúc “Tôi gọi mãi” vang trong vô vọng, nghe cứa lòng, trĩu nặng. “Tôi gọi mãi sao đồng đội không thưa”; “Tôi gọi mãi sao không ai trả lời”... Không gian thì “Lạnh trắng một màu cắt da cắt thịt”. “Tổ quốc sum vầy các anh đâu hết. Cứ vô tình hay rong hay chơi?”. Có lẽ tác giả cũng nát lòng khi dùng câu trách yêu thương “Cứ vô tình hay rong hay chơi?”. Trách mà trái tim thì đau, mắt thì ràn rụa nước.

Tổ quốc đã trải qua bao mất mát đau thương bởi chiến tranh, vì vậy hơn ai hết, những người lính còn may mắn trở về càng thấm thía giá trị của hoà bình. Và họ càng không thể quên đồng đội mình, những người đồng cam cộng khổ, đối đầu với bom đạn, hiểm nguy, thậm chí dành phần hy sinh để cho mình được sống. Vì vậy họ cư xử có nghĩa, có tình, có nhân cách, thuỷ chung. “Ðồng đội ơi! Dù năm tháng không nguôi. Xin hãy để cho tôi được khóc. Với những ngôi mộ có tên không tên hàng ngang hàng dọc. Vì chúng tôi là đồng đội của nhau”. Từng câu, từng lời bài hát cứ như xoáy vào lòng người, đan kết thành nỗi xót xa, khắc khoải.

Những ngày tháng 4 lịch sử vừa qua, tôi may mắn có dịp tới Quảng Trị, nơi được mệnh danh là vùng đất lửa với sự khốc liệt nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nơi dù nằm ở khúc eo miền Trung, diện tích không lớn lắm nhưng có tới 72 nghĩa trang liệt sĩ, trong đó có đến 2 nghĩa trang liệt sĩ tầm cỡ quốc gia, là Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn và Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Ðường 9, với hơn 20 ngàn ngôi mộ của các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống vì độc lập, tự do, vì sự tồn vong của Tổ quốc, được quy tập về yên nghỉ nơi này. Rồi còn cầu Hiền Lương, Thành cổ Quảng Trị, dòng sông Thạch Hãn… mỗi địa danh đều in đậm dấu tích đạn bom và nỗi mất mát đau thương của hàng vạn chiến sĩ, đồng bào.

Dòng sông Thạch Hãn - Nghĩa trang không bia mộ, nơi rất nhiều chiến sĩ hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ Thành cổ Quảng Trị “Mùa hè đỏ lửa” năm 1972. Ảnh: NP

Hôm đến viếng Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn, bỗng lặng người trong xúc động. Cả khu vực xa tít, mênh mông với hơn 10 ngàn ngôi mộ “có tên không tên hàng ngang hàng dọc” trắng xoá một màu! Rải rác khắp nghĩa trang, thấp thoáng nhiều cựu chiến binh trong màu áo lính. Có tiếng khấn vái rì rầm, có những cánh tay quệt ngang đôi dòng nước mắt. Chợt trong đầu, thanh âm bài hát ấy lại vang lên: “... Ðồng đội ơi! Chiều trắng xoá những linh hồn trắng. Mây trắng bay và bướm trắng chập chờn. Hương khói trắng, lòng ta trắng lặng. Ðồng đội ơi, chớp bể mưa nguồn!”. Cứ cảm giác cả bài hát ấy là cho nơi đây và những đồng đội này. Lòng rưng rưng, thổn thức...

Các cựu chiến binh bùi ngùi thắp nhang tưởng nhớ đồng đội ở Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn. Ảnh: Thanh Chi

 

Có một điều thêm cảm kích khi tìm hiểu về bài hát "Ðồng đội ơi" nữa là, một lần bắt gặp được bài hát này, cựu chiến binh Lê Bá Dương, người luôn nặng lòng với đồng đội và có những câu thơ làm tan chảy lòng người: “Ðò lên Thạch Hãn, ơi... chèo nhẹ/Ðáy sông còn đó bạn tôi nằm/Có tuổi đôi mươi thành sóng nước/Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm”, người mà tháng 7 hàng năm lại kết bè thả hoa tưởng nhớ những đồng đội đã hy sinh trên dòng sông Thạch Hãn, đã tìm gặp Nhà thơ Trương Vĩnh Tuấn. Và họ cùng mang bài hát ấy lên đầu nguồn sông Thạch Hãn thả xuống, như nén nhang lòng để tưởng nhớ những đồng đội không mộ trên dòng sông.

Những nhạc sĩ, nhà thơ là người lính như Nguyễn Giang, Trương Vĩnh Tuấn, Lê Bá Dương... từ chỗ không quen biết, nhưng cùng một nỗi niềm mà xích lại gần nhau. Các ông đã dùng thơ, dùng nhạc để cất lên tiếng lòng gởi nỗi nhớ thương về đồng đội. Và chắc ở nơi “chớp bể, mưa nguồn”, phiêu diêu vạn nẻo, linh hồn đồng đội cũng ấm áp đôi phần.

Một chút tâm tình, như nén hương lòng thành kính anh linh các anh hùng liệt sĩ trong những ngày tri ân tháng 7./.

 

Trang Thăm

 

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Ðài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến - Tiếng nói của khát vọng độc lập, tự do

Đài Nam Bộ Kháng chiến ra đời những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947-1954). Có lúc đóng ở Ðồng Tháp Mười (Long An); có giai đoạn ở Thới Bình, Ðầm Dơi, Ngọc Hiển, U Minh (Cà Mau), hay Kiên Giang, Bạc Liêu; có thời điểm đài đổi tên thành Ðài Tiếng nói Nam Bộ. Tuy vậy, dù ở bất cứ nơi đâu, tên gọi khác nhau, nhưng các thế hệ cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên của đài không ai được đào tạo bài bản về phát thanh nhưng đã làm nên một đài phát thanh vang danh, lừng lẫy; tạo dấu ấn đặc biệt trong lịch sử báo chí Việt Nam nói chung và ngành phát thanh nói riêng. Ðó là tiếng nói của Uỷ ban Nam Bộ Kháng chiến; cầu nối của Ðảng, Bác Hồ với đồng bào Nam Bộ; là ước mong, khát vọng của đồng bào nơi đây về một Việt Nam độc lập, tự do.

Những khó khăn, thách thức của người làm báo trong thời kháng chiến

Mùa khô năm 1964, lần thứ hai tôi theo mẹ từ Bến Tre vào Cà Mau thăm ba tôi đang làm ruộng và dạy học tư ở Kinh Hãng Giữa... Ba tôi bất hợp pháp kể từ năm bác ruột thứ tư của tôi - 1 trong 12 người Việt Minh làng Ba Mỹ bị giặc Pháp bắt chặt đầu ở bót Nhà Việc Mỹ Chánh năm 1946... Lần này, ba tôi không cho tôi trở về quê nữa, vì về ngoải mai mốt lớn lên tụi giặc nó bắt lính... Thế là tôi phải ở lại trong này, thành công dân Cà Mau từ đó.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.