ĐT: 0939.923988
Thứ năm, 16-5-24 23:00:55
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Khắc khoải đồng đội ơi!

Báo Cà Mau (CMO) Có những mất mát đau thương đã bật thành lời thơ, ý nhạc. Ðó cũng là tiếng lòng của những người đồng đội dành cho đồng đội mình.

“Tôi gọi mãi sao đồng đội không thưa. Mà mưa cứ rơi, gió cứ gào cứ thét. Mà cứ thẳng hàng ngang hàng dọc. Hết giặc rồi sao không dậy mà vui...”. Cách đây mấy năm, tình cờ tôi được nghe những câu hát này ở loa truyền thanh trên đường. Hình như đó là dịp tri ân các anh hùng liệt sĩ. Tự nhiên thấy lòng xốn xang, se thắt.

Về nhà mở mạng tìm hiểu được biết, đó là bài "Ðồng đội ơi", thơ của Trương Vĩnh Tuấn, nhạc Nguyễn Giang. Cả hai đều là những người lính, từng tham gia chiến đấu trên chiến trường miền Trung - Tây Nguyên đạn bom ác liệt ngày nào. Hoà bình, họ may mắn còn sống trở về, thế nhưng lòng vẫn đau đáu nỗi nhớ thương những người đồng đội thân yêu đã mãi ra đi vì đất nước.

Có sở trường về chữ nghĩa, Trương Vĩnh Tuấn đã bày tỏ nỗi niềm qua những câu thơ. Còn Nguyễn Giang, một lần tình cờ bắt gặp những tâm tình ấy, cứ ngỡ đó là lời lẽ viết cho mình, nói hộ lòng mình nên lập tức phổ nhạc bài thơ. Cây nhang thắp lên vái lạy đồng đội vừa tàn, khói hương còn bảng lảng thì bài hát đã hoàn thành. Và có lẽ, vì nói được nỗi đau thương mất mát của những người lính bước ra từ cuộc chiến mà bài hát nhanh chóng lan truyền rộng rãi trong các cựu chiến binh trên khắp mọi miền đất nước.

Tôi nhiều lần nghe đi nghe lại bài hát mà cảm xúc vẫn trào dâng. Tiếng gọi “Ðồng đội ơi” cứ cất lên thiết tha, da diết. Cùng với đó là điệp khúc “Tôi gọi mãi” vang trong vô vọng, nghe cứa lòng, trĩu nặng. “Tôi gọi mãi sao đồng đội không thưa”; “Tôi gọi mãi sao không ai trả lời”... Không gian thì “Lạnh trắng một màu cắt da cắt thịt”. “Tổ quốc sum vầy các anh đâu hết. Cứ vô tình hay rong hay chơi?”. Có lẽ tác giả cũng nát lòng khi dùng câu trách yêu thương “Cứ vô tình hay rong hay chơi?”. Trách mà trái tim thì đau, mắt thì ràn rụa nước.

Tổ quốc đã trải qua bao mất mát đau thương bởi chiến tranh, vì vậy hơn ai hết, những người lính còn may mắn trở về càng thấm thía giá trị của hoà bình. Và họ càng không thể quên đồng đội mình, những người đồng cam cộng khổ, đối đầu với bom đạn, hiểm nguy, thậm chí dành phần hy sinh để cho mình được sống. Vì vậy họ cư xử có nghĩa, có tình, có nhân cách, thuỷ chung. “Ðồng đội ơi! Dù năm tháng không nguôi. Xin hãy để cho tôi được khóc. Với những ngôi mộ có tên không tên hàng ngang hàng dọc. Vì chúng tôi là đồng đội của nhau”. Từng câu, từng lời bài hát cứ như xoáy vào lòng người, đan kết thành nỗi xót xa, khắc khoải.

Những ngày tháng 4 lịch sử vừa qua, tôi may mắn có dịp tới Quảng Trị, nơi được mệnh danh là vùng đất lửa với sự khốc liệt nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nơi dù nằm ở khúc eo miền Trung, diện tích không lớn lắm nhưng có tới 72 nghĩa trang liệt sĩ, trong đó có đến 2 nghĩa trang liệt sĩ tầm cỡ quốc gia, là Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn và Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Ðường 9, với hơn 20 ngàn ngôi mộ của các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống vì độc lập, tự do, vì sự tồn vong của Tổ quốc, được quy tập về yên nghỉ nơi này. Rồi còn cầu Hiền Lương, Thành cổ Quảng Trị, dòng sông Thạch Hãn… mỗi địa danh đều in đậm dấu tích đạn bom và nỗi mất mát đau thương của hàng vạn chiến sĩ, đồng bào.

Dòng sông Thạch Hãn - Nghĩa trang không bia mộ, nơi rất nhiều chiến sĩ hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ Thành cổ Quảng Trị “Mùa hè đỏ lửa” năm 1972. Ảnh: NP

Hôm đến viếng Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn, bỗng lặng người trong xúc động. Cả khu vực xa tít, mênh mông với hơn 10 ngàn ngôi mộ “có tên không tên hàng ngang hàng dọc” trắng xoá một màu! Rải rác khắp nghĩa trang, thấp thoáng nhiều cựu chiến binh trong màu áo lính. Có tiếng khấn vái rì rầm, có những cánh tay quệt ngang đôi dòng nước mắt. Chợt trong đầu, thanh âm bài hát ấy lại vang lên: “... Ðồng đội ơi! Chiều trắng xoá những linh hồn trắng. Mây trắng bay và bướm trắng chập chờn. Hương khói trắng, lòng ta trắng lặng. Ðồng đội ơi, chớp bể mưa nguồn!”. Cứ cảm giác cả bài hát ấy là cho nơi đây và những đồng đội này. Lòng rưng rưng, thổn thức...

Các cựu chiến binh bùi ngùi thắp nhang tưởng nhớ đồng đội ở Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn. Ảnh: Thanh Chi

 

Có một điều thêm cảm kích khi tìm hiểu về bài hát "Ðồng đội ơi" nữa là, một lần bắt gặp được bài hát này, cựu chiến binh Lê Bá Dương, người luôn nặng lòng với đồng đội và có những câu thơ làm tan chảy lòng người: “Ðò lên Thạch Hãn, ơi... chèo nhẹ/Ðáy sông còn đó bạn tôi nằm/Có tuổi đôi mươi thành sóng nước/Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm”, người mà tháng 7 hàng năm lại kết bè thả hoa tưởng nhớ những đồng đội đã hy sinh trên dòng sông Thạch Hãn, đã tìm gặp Nhà thơ Trương Vĩnh Tuấn. Và họ cùng mang bài hát ấy lên đầu nguồn sông Thạch Hãn thả xuống, như nén nhang lòng để tưởng nhớ những đồng đội không mộ trên dòng sông.

Những nhạc sĩ, nhà thơ là người lính như Nguyễn Giang, Trương Vĩnh Tuấn, Lê Bá Dương... từ chỗ không quen biết, nhưng cùng một nỗi niềm mà xích lại gần nhau. Các ông đã dùng thơ, dùng nhạc để cất lên tiếng lòng gởi nỗi nhớ thương về đồng đội. Và chắc ở nơi “chớp bể, mưa nguồn”, phiêu diêu vạn nẻo, linh hồn đồng đội cũng ấm áp đôi phần.

Một chút tâm tình, như nén hương lòng thành kính anh linh các anh hùng liệt sĩ trong những ngày tri ân tháng 7./.

 

Trang Thăm

 

Vinh quang bất tử

Mỗi câu chuyện từ những nhân chứng đi ra từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đều là những trang sử sống quý giá, sinh động, mà may mắn thay, hậu thế chúng tôi, những người không biết đến bom đạn chiến tranh còn có thể nghiêng mình chiêm ngưỡng.

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ - SỨC MẠNH VIỆT NAM, TẦM VÓC THỜI ĐẠI - Phần II: Diễn biến, kết quả của chiến dịch

Sau khi công tác chuẩn bị hoàn thành, ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng tiến công Điện Biên Phủ. Chiến dịch diễn ra thành ba đợt trong gần hai tháng. Với địa hình hiểm trở, việc kéo pháo vào tập trung tại trận địa đã vô cùng khó khăn.Tuy nhiên, với tinh thần quả cảm, không quản ngại gian khổ, hy sinh, quân và dân ta đã tìm mọi cách vượt qua thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ - SỨC MẠNH VIỆT NAM, TẦM VÓC THỜI ĐẠI - Phần III: Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của chiến dịch Điện Biên Phủ

Chiến thắng Điện Biên Phủ của dân tộc ta đã chứng minh một chân lý của thời đại: các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó nhất định thắng lợi.

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ - SỨC MẠNH VIỆT NAM, TẦM VÓC THỜI ĐẠI - Phần I: Bối cảnh lịch sử, âm mưu của thực dân Pháp và sự chỉ đạo chiến lược của ta

70 năm đã trôi qua, Chiến dịch Điện Biên Phủ (07.5.1954 - 07.5.2024) là chiến thắng vĩ đại đã ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một mốc son rực sáng nhất trong thế kỷ XX. Đây là chiến thắng của chủ nghĩa yêu nước, ý chí bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử... Ý nghĩa, tầm vóc, những bài học lịch sử vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bản anh hùng ca bất diệt của thời đại Hồ Chí Minh

Đúng ngày này 70 năm trước, bộ đội ta đã nổ những phát súng đầu tiên mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, tiến công tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của thực dân Pháp mà ngay cả trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ II cũng không có tập đoàn cứ điểm nào mạnh bằng. Trải qua 56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non (thơ Tố Hữu), bộ đội Việt Nam anh hùng đã vượt lên bao mưa bom, bão đạn và cắm lá cờ Quyết chiến, Quyết thắng của Bác Hồ trao trên nóc hầm Đờ Cát, vào giữa tim con nhím Điện Biên Phủ, kết liễu số phận của nó.

Ðong đầy ký ức Ðiện Biên

Chiến thắng Ðiện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” năm 1954 là mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. 70 năm trôi qua, những người lính Bộ đội Cụ Hồ, thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến từng tham gia Chiến dịch Ðiện Biên Phủ luôn tự hào về những năm tháng gian khổ nhưng đầy oanh liệt ấy.

Chiến thắng Điện Biên Phủ, thắng lợi vĩ đại của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc

Cách đây vừa tròn 70 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã tiến hành trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, làm nên chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đây là thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam, minh chứng hùng hồn cho sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh.

Những năm tháng mãi trong tim...

Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, với quyết định mang tầm chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Ðảng, những chuyến tàu năm 1954 đã đưa nhiều người con miền Nam tập kết ra Bắc tiếp tục học tập, nhằm đào tạo lực lượng cán bộ cho sự nghiệp cách mạng lâu dài của Ðảng. Trong số đó, có những người con Cà Mau. Ðến nay, dù đã 7 thập kỷ trôi qua, nhưng họ vẫn nhớ như in cái ngày lịch sử ấy.

Vẹn nguyên giá trị ngày toàn thắng

49 năm, ngót nửa thế kỷ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, với tầm vóc lịch sử đã được đúc kết: “Thắng lợi của Nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta, một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc” (Báo cáo chính trị tại Ðại hội Ðại biểu toàn quốc lần thứ IV của Ðảng).

Ðội quân kiến vàng

Thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước, một số địa phương ở miền Nam, như Bến Tre, sáng tạo cách đánh giặc bằng hầm chông kết hợp ong vò vẽ, làm cho kẻ địch bao phen bạt vía... Ở Cà Mau, lại có loại vũ khí lợi hại chẳng kém ong vò vẽ, khiến quân nguỵ bị một phen điếng hồn, bỏ chạy, đó là “đội quân kiến vàng”, không phải nuôi và cũng không huấn luyện gì.