ĐT: 0939.923988
Thứ hai, 25-8-25 20:28:33
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Lê Ngọc Tuyết - cánh hoa thời lửa đạn

Báo Cà Mau Chị đã hy sinh oanh liệt cách đây 45 năm nhưng hình ảnh người con gái kiên trung vẫn còn in đậm trong tâm khảm của đồng bào huyện Châu Thành, tỉnh Cà Mau năm xưa và của đồng đội chị - đơn vị địa phương quân, Trung đội Nữ pháo binh huyện Châu Thành. Ðó là chị Lê Thị Cưng, bí danh Lê Ngọc Tuyết.

Chị đã hy sinh oanh liệt cách đây 45 năm nhưng hình ảnh người con gái kiên trung vẫn còn in đậm trong tâm khảm của đồng bào huyện Châu Thành, tỉnh Cà Mau năm xưa và của đồng đội chị - đơn vị địa phương quân, Trung đội Nữ pháo binh huyện Châu Thành. Ðó là chị Lê Thị Cưng, bí danh Lê Ngọc Tuyết.

Chị sinh ra ở ấp Bào Bèo, xã Lương Thế Trân, huyện Cái Nước, trong một gia đình nông dân có truyền thống cách mạng. 18 tuổi chị đã trở thành chiến sĩ giải phóng quân. Mới vài tháng phục vụ ở đơn vị địa phương quân huyện Châu Thành (các vùng ven tiếp giáp TP Cà Mau ngày nay) thì huyện thành lập Trung đội Nữ pháo binh, chị trở thành tay xạ thủ của đơn vị mới, chiến đấu ngoan cường, dũng cảm.

Chị Ngọc Tuyết tham gia nhiều trận đánh, trong đó có 6 trận nổi bật ở vùng chiến sự từ xã Hoà Thành, thị xã Cà Mau đến huyện Ðông Hải (tỉnh Bạc Liêu). Tương quan lực lượng không cân sức bởi nguỵ quân cấp tiểu đoàn còn tăng cường cả không lực và trọng pháo, nhưng đơn vị đã bẻ gãy nhiều trận càn, đổ quân của giặc. Lực lượng địa phương quân và Trung đội Nữ pháo binh huyện đã bắn chìm nhiều tàu chiến, máy bay của địch, cá nhân chị Lê Ngọc Tuyết được tuyên dương Dũng sĩ diệt nguỵ năm 1968, sau 8 tháng gia nhập quân đội cầm súng chiến đấu.

Ðánh giặc giỏi, mưu trí, luồng sâu vào hang ổ của địch để thực địa trước khi pháo kích vào mục tiêu, bao giờ chị Tuyết cũng đạt độ chính xác rất cao, như những đợt tấn công vào Chi khu Tắc Vân và các đồn lân cận. Gián điệp theo sát đơn vị nữ pháo binh vì chúng đánh giá được khả năng chiến đấu cũng như tinh thần bất khuất của những người phụ nữ đặc biệt này.  Biết được mối đe doạ luôn rình rập, các chị khéo léo qua mắt kẻ thù để xây dựng trận địa pháo hiệu quả nhất, luôn thận trọng trong việc bố trí đội hình, nhất là chấm toạ độ để “rót” pháo đúng mục tiêu.

Thời kỳ đó, hầu hết vũ khí đều tự chế, các pháo thủ phải tiếp cận mục tiêu ở cự ly gần và pháo chỉ bắn được tối đa là 200 m, đây cũng là thách thức không nhỏ đối với các chị, nhưng lần nào trung đội nữ pháo binh cũng hoàn thành nhiệm vụ. Chiến tranh ngày càng ác liệt, nhất là giai đoạn sau tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968, đến năm 1969, vùng tranh chấp giữa ta và địch ngày càng gay gắt. Trong trận chiến đấu tại ấp Lung Chim, xã Ðịnh Thành, huyện Châu Thành cũ, nay là huyện Ðông Hải, tỉnh Bạc Liêu, đội hình được bố trí trong đêm, công sự cũng hoàn thành, nhưng nơi đây là đồng trống, mùa khô chỉ trơ gốc rạ, dưới bờ kinh chỉ có cốc kèn, ô rô. Khi lực lượng ta đã vào vị trí thì pháo giặc bắn ngay đội hình, biết bị lộ nên chỉ huy ra lệnh đưa lực lượng chuyển hướng, tư trang, súng ống ngụy trang cẩn thận rồi để tại chỗ. Giặc xiết vòng vây từ 5 giờ sáng đến 12 giờ trưa, quân ta rơi vào thế bị động, một số mũi anh em hy sinh, số khác tự phân tán để bảo toàn lực lượng. Trong số người bị giặc bắt có chị Lê Ngọc Tuyết, đó là ngày 23/1/1969. Chị Tuyết bị thương nặng không đi được, 2 đồng đội là chị Pha và Phượng kè 2 bên. Máy bay trực thăng giặc sà xuống, định bốc các chị lên máy bay. Chúng nói là đi chữa thương nhưng mọi người biết là đã sa vào tay giặc, chỉ có con đường chết mà thôi.         

Chị Nguyễn Kim Pha (Năm Pha) hiện là cán bộ hưu trí ở phường 9, TP Cà Mau, người kề cận trước khi Tuyết hy sinh, kể lại: “Tụi tôi hay nói với nhau, nếu chẳng may bị giặc bắt thì dùng lựu đạn “cưa hai” với chúng chứ không đầu hàng hay để chúng tra tấn, hành hạ. Hôm bị bắt, chúng tôi nói: “Bắt được tao thì tụi mầy bắn đi đừng dụ dỗ. Chị Phượng (Cao Thị Mận, hiện là cựu chiến binh xã An Xuyên, TP Cà Mau) cũng kiên quyết không để chúng đưa đi. Tuyết bặm môi vì đau đớn và mệt nhọc bởi máu ra nhiều, nhưng Tuyết xô tôi và Phượng ra rồi dõng dạc mắng vô mặt mấy tên lính áp giải: “Ðồ khốn nạn, quân bán nước! Mầy giết tao đi, tao có chết thì chết tại đây, tao không đi đâu hết! Tuyết hiên ngang trước mặt chúng và chửi dữ dội hơn, không chút sợ hãi. Chúng chĩa súng vào Tuyết. Tuyết chết ngay trước mắt chúng tôi…

Tuyết ngã xuống, chúng liền xông vào túm lấy tôi và Phượng lôi lên máy bay mặc cho 2 đứa gào khóc gọi tên Tuyết. Trong tù, hình ảnh người đồng chí thân thương, kiên cường Lê Ngọc Tuyết không lúc nào lu mờ trong chúng tôi, giúp chúng tôi có thêm nghị lực vượt qua bao nhiêu cực hình tra tấn của quân thù cho đến ngày được trao trả khi Hiệp định Paris có hiệu lực”.

Chị Nguyễn Hồng Nỹ, nguyên Trung đội trưởng Trung đội Nữ pháo binh huyện Châu Thành, kể lại: “Tuyết không đẹp rạng rỡ nhưng rất có duyên. Chị còn nhớ, Tuyết thích mặc đồ lục quân, dây nịch hẳn hoi, nón tai bèo, khăn rằn không quấn mà thắt vào cổ. Tác phong nhanh nhẹn, mạnh mẽ là vậy nhưng Tuyết sống rất tình cảm, bao giờ cũng nghĩ cho người khác, không so bì dù quyền lợi đó thuộc về mình. Cả đơn vị ai cũng yêu thương em Tuyết. Tuyết hy sinh là mất mát quá lớn, đau buồn không sao kể xiết. Nhất là cậu Phương - người chiến sĩ địa phương quân, 2 em hứa hẹn ngày hoà bình sẽ nên vợ nên chồng, vậy mà… Cậu Phương lao ra mặt trận, chiến đấu thật anh dũng để trả thù cho người yêu. 3 tháng sau, cậu ấy cũng hy sinh”. Chị Nguyễn Hồng Nỹ bùi ngùi: “Trong 5 cặp yêu nhau ở đơn vị pháo binh, sau năm 1969, không cặp nào nguyên vẹn. Tôi khóc cho họ mà ngỡ khóc cho chính mình. Ðau thương ngút trời cảnh tử biệt sinh ly! Không thể kể hết nỗi đau mà chiến tranh gây ra cho chúng tôi thời đó. Chiều còn quây quần bên nhau trong bữa cơm đạm bạc, sáng ra, kẻ ở người đã ra đi. Người còn lại đâu tiếc gì mạng sống. Nợ nước thù nhà đè nặng đôi vai nên chỉ biết chiến đấu và chiến đấu”.

Những câu chuyện thời chiến cho đến bây giờ vẫn không sao kể hết, mỗi cuộc đời là một tấm gương. Chị Lê Ngọc Tuyết cũng như biết bao người phụ nữ trung trinh tiết liệt khắp đất nước ta đã ngả xuống cho độc lập tự do của dân tộc, làm tròn sứ mệnh của lớp thanh niên anh dũng thời đại Hồ Chí Minh, xứng đáng là con cháu Bà Trưng, Bà Triệu. Xin dâng lên chị nén nhang thành kính của những người sống trong độc lập, tự do hôm nay và cả mai sau./.

Lê Ngọc

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 2: Tìm hài cốt liệt sĩ nơi xứ người

Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ được Đảng, Nhà nước, Quân đội và thân nhân liệt sĩ được tăng cường, bất kể thời tiết, địa hình trắc trở. Dẫu lắm vất vả, gian truân nhưng là hành trình tri ân về tình đồng đội, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về

LTS: Vào ngày 17/7/2024, Bộ Công an ban hành Kế hoạch số 356/KH-BCA-C06 về việc triển khai thu nhận mẫu ADN cho thân nhân của liệt sĩ chưa xác nhận được danh tính trên toàn quốc. Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà là Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin, đã chỉ đạo một cách sát sao đối với công an của các tỉnh, thành phố. Hoạt động ý nghĩa, nhân văn này nhằm đưa hài cốt các anh hùng liệt sĩ về đất mẹ an táng với tên họ và thông tin đầy đủ nhất, thể hiện sự tri ân mà thế hệ hôm nay đối với thế hệ đi trước.

Những chi bộ đảng đầu tiên ở Cà Mau

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3/2/1930) dưới sự sáng lập và rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam với con đường kiên định: Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. 

Trung đoàn Đặc công Đ10 kỷ niệm 80 năm thành lập

Ngày 9/8, Trung đoàn Đặc công Đ10 Anh hùng long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập, khẳng định truyền thống vẻ vang và tiếp nối ngọn lửa nhiệt huyết cách mạng cho thế hệ sau.

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.