ĐT: 0939.923988
Thứ ba, 24-6-25 12:57:39
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Lê Ngọc Tuyết - cánh hoa thời lửa đạn

Báo Cà Mau Chị đã hy sinh oanh liệt cách đây 45 năm nhưng hình ảnh người con gái kiên trung vẫn còn in đậm trong tâm khảm của đồng bào huyện Châu Thành, tỉnh Cà Mau năm xưa và của đồng đội chị - đơn vị địa phương quân, Trung đội Nữ pháo binh huyện Châu Thành. Ðó là chị Lê Thị Cưng, bí danh Lê Ngọc Tuyết.

Chị đã hy sinh oanh liệt cách đây 45 năm nhưng hình ảnh người con gái kiên trung vẫn còn in đậm trong tâm khảm của đồng bào huyện Châu Thành, tỉnh Cà Mau năm xưa và của đồng đội chị - đơn vị địa phương quân, Trung đội Nữ pháo binh huyện Châu Thành. Ðó là chị Lê Thị Cưng, bí danh Lê Ngọc Tuyết.

Chị sinh ra ở ấp Bào Bèo, xã Lương Thế Trân, huyện Cái Nước, trong một gia đình nông dân có truyền thống cách mạng. 18 tuổi chị đã trở thành chiến sĩ giải phóng quân. Mới vài tháng phục vụ ở đơn vị địa phương quân huyện Châu Thành (các vùng ven tiếp giáp TP Cà Mau ngày nay) thì huyện thành lập Trung đội Nữ pháo binh, chị trở thành tay xạ thủ của đơn vị mới, chiến đấu ngoan cường, dũng cảm.

Chị Ngọc Tuyết tham gia nhiều trận đánh, trong đó có 6 trận nổi bật ở vùng chiến sự từ xã Hoà Thành, thị xã Cà Mau đến huyện Ðông Hải (tỉnh Bạc Liêu). Tương quan lực lượng không cân sức bởi nguỵ quân cấp tiểu đoàn còn tăng cường cả không lực và trọng pháo, nhưng đơn vị đã bẻ gãy nhiều trận càn, đổ quân của giặc. Lực lượng địa phương quân và Trung đội Nữ pháo binh huyện đã bắn chìm nhiều tàu chiến, máy bay của địch, cá nhân chị Lê Ngọc Tuyết được tuyên dương Dũng sĩ diệt nguỵ năm 1968, sau 8 tháng gia nhập quân đội cầm súng chiến đấu.

Ðánh giặc giỏi, mưu trí, luồng sâu vào hang ổ của địch để thực địa trước khi pháo kích vào mục tiêu, bao giờ chị Tuyết cũng đạt độ chính xác rất cao, như những đợt tấn công vào Chi khu Tắc Vân và các đồn lân cận. Gián điệp theo sát đơn vị nữ pháo binh vì chúng đánh giá được khả năng chiến đấu cũng như tinh thần bất khuất của những người phụ nữ đặc biệt này.  Biết được mối đe doạ luôn rình rập, các chị khéo léo qua mắt kẻ thù để xây dựng trận địa pháo hiệu quả nhất, luôn thận trọng trong việc bố trí đội hình, nhất là chấm toạ độ để “rót” pháo đúng mục tiêu.

Thời kỳ đó, hầu hết vũ khí đều tự chế, các pháo thủ phải tiếp cận mục tiêu ở cự ly gần và pháo chỉ bắn được tối đa là 200 m, đây cũng là thách thức không nhỏ đối với các chị, nhưng lần nào trung đội nữ pháo binh cũng hoàn thành nhiệm vụ. Chiến tranh ngày càng ác liệt, nhất là giai đoạn sau tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968, đến năm 1969, vùng tranh chấp giữa ta và địch ngày càng gay gắt. Trong trận chiến đấu tại ấp Lung Chim, xã Ðịnh Thành, huyện Châu Thành cũ, nay là huyện Ðông Hải, tỉnh Bạc Liêu, đội hình được bố trí trong đêm, công sự cũng hoàn thành, nhưng nơi đây là đồng trống, mùa khô chỉ trơ gốc rạ, dưới bờ kinh chỉ có cốc kèn, ô rô. Khi lực lượng ta đã vào vị trí thì pháo giặc bắn ngay đội hình, biết bị lộ nên chỉ huy ra lệnh đưa lực lượng chuyển hướng, tư trang, súng ống ngụy trang cẩn thận rồi để tại chỗ. Giặc xiết vòng vây từ 5 giờ sáng đến 12 giờ trưa, quân ta rơi vào thế bị động, một số mũi anh em hy sinh, số khác tự phân tán để bảo toàn lực lượng. Trong số người bị giặc bắt có chị Lê Ngọc Tuyết, đó là ngày 23/1/1969. Chị Tuyết bị thương nặng không đi được, 2 đồng đội là chị Pha và Phượng kè 2 bên. Máy bay trực thăng giặc sà xuống, định bốc các chị lên máy bay. Chúng nói là đi chữa thương nhưng mọi người biết là đã sa vào tay giặc, chỉ có con đường chết mà thôi.         

Chị Nguyễn Kim Pha (Năm Pha) hiện là cán bộ hưu trí ở phường 9, TP Cà Mau, người kề cận trước khi Tuyết hy sinh, kể lại: “Tụi tôi hay nói với nhau, nếu chẳng may bị giặc bắt thì dùng lựu đạn “cưa hai” với chúng chứ không đầu hàng hay để chúng tra tấn, hành hạ. Hôm bị bắt, chúng tôi nói: “Bắt được tao thì tụi mầy bắn đi đừng dụ dỗ. Chị Phượng (Cao Thị Mận, hiện là cựu chiến binh xã An Xuyên, TP Cà Mau) cũng kiên quyết không để chúng đưa đi. Tuyết bặm môi vì đau đớn và mệt nhọc bởi máu ra nhiều, nhưng Tuyết xô tôi và Phượng ra rồi dõng dạc mắng vô mặt mấy tên lính áp giải: “Ðồ khốn nạn, quân bán nước! Mầy giết tao đi, tao có chết thì chết tại đây, tao không đi đâu hết! Tuyết hiên ngang trước mặt chúng và chửi dữ dội hơn, không chút sợ hãi. Chúng chĩa súng vào Tuyết. Tuyết chết ngay trước mắt chúng tôi…

Tuyết ngã xuống, chúng liền xông vào túm lấy tôi và Phượng lôi lên máy bay mặc cho 2 đứa gào khóc gọi tên Tuyết. Trong tù, hình ảnh người đồng chí thân thương, kiên cường Lê Ngọc Tuyết không lúc nào lu mờ trong chúng tôi, giúp chúng tôi có thêm nghị lực vượt qua bao nhiêu cực hình tra tấn của quân thù cho đến ngày được trao trả khi Hiệp định Paris có hiệu lực”.

Chị Nguyễn Hồng Nỹ, nguyên Trung đội trưởng Trung đội Nữ pháo binh huyện Châu Thành, kể lại: “Tuyết không đẹp rạng rỡ nhưng rất có duyên. Chị còn nhớ, Tuyết thích mặc đồ lục quân, dây nịch hẳn hoi, nón tai bèo, khăn rằn không quấn mà thắt vào cổ. Tác phong nhanh nhẹn, mạnh mẽ là vậy nhưng Tuyết sống rất tình cảm, bao giờ cũng nghĩ cho người khác, không so bì dù quyền lợi đó thuộc về mình. Cả đơn vị ai cũng yêu thương em Tuyết. Tuyết hy sinh là mất mát quá lớn, đau buồn không sao kể xiết. Nhất là cậu Phương - người chiến sĩ địa phương quân, 2 em hứa hẹn ngày hoà bình sẽ nên vợ nên chồng, vậy mà… Cậu Phương lao ra mặt trận, chiến đấu thật anh dũng để trả thù cho người yêu. 3 tháng sau, cậu ấy cũng hy sinh”. Chị Nguyễn Hồng Nỹ bùi ngùi: “Trong 5 cặp yêu nhau ở đơn vị pháo binh, sau năm 1969, không cặp nào nguyên vẹn. Tôi khóc cho họ mà ngỡ khóc cho chính mình. Ðau thương ngút trời cảnh tử biệt sinh ly! Không thể kể hết nỗi đau mà chiến tranh gây ra cho chúng tôi thời đó. Chiều còn quây quần bên nhau trong bữa cơm đạm bạc, sáng ra, kẻ ở người đã ra đi. Người còn lại đâu tiếc gì mạng sống. Nợ nước thù nhà đè nặng đôi vai nên chỉ biết chiến đấu và chiến đấu”.

Những câu chuyện thời chiến cho đến bây giờ vẫn không sao kể hết, mỗi cuộc đời là một tấm gương. Chị Lê Ngọc Tuyết cũng như biết bao người phụ nữ trung trinh tiết liệt khắp đất nước ta đã ngả xuống cho độc lập tự do của dân tộc, làm tròn sứ mệnh của lớp thanh niên anh dũng thời đại Hồ Chí Minh, xứng đáng là con cháu Bà Trưng, Bà Triệu. Xin dâng lên chị nén nhang thành kính của những người sống trong độc lập, tự do hôm nay và cả mai sau./.

Lê Ngọc

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Ðài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến - Tiếng nói của khát vọng độc lập, tự do

Đài Nam Bộ Kháng chiến ra đời những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947-1954). Có lúc đóng ở Ðồng Tháp Mười (Long An); có giai đoạn ở Thới Bình, Ðầm Dơi, Ngọc Hiển, U Minh (Cà Mau), hay Kiên Giang, Bạc Liêu; có thời điểm đài đổi tên thành Ðài Tiếng nói Nam Bộ. Tuy vậy, dù ở bất cứ nơi đâu, tên gọi khác nhau, nhưng các thế hệ cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên của đài không ai được đào tạo bài bản về phát thanh nhưng đã làm nên một đài phát thanh vang danh, lừng lẫy; tạo dấu ấn đặc biệt trong lịch sử báo chí Việt Nam nói chung và ngành phát thanh nói riêng. Ðó là tiếng nói của Uỷ ban Nam Bộ Kháng chiến; cầu nối của Ðảng, Bác Hồ với đồng bào Nam Bộ; là ước mong, khát vọng của đồng bào nơi đây về một Việt Nam độc lập, tự do.

Những khó khăn, thách thức của người làm báo trong thời kháng chiến

Mùa khô năm 1964, lần thứ hai tôi theo mẹ từ Bến Tre vào Cà Mau thăm ba tôi đang làm ruộng và dạy học tư ở Kinh Hãng Giữa... Ba tôi bất hợp pháp kể từ năm bác ruột thứ tư của tôi - 1 trong 12 người Việt Minh làng Ba Mỹ bị giặc Pháp bắt chặt đầu ở bót Nhà Việc Mỹ Chánh năm 1946... Lần này, ba tôi không cho tôi trở về quê nữa, vì về ngoải mai mốt lớn lên tụi giặc nó bắt lính... Thế là tôi phải ở lại trong này, thành công dân Cà Mau từ đó.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.

Từ Báo Chiến đến Báo Cà Mau

Từ những năm 1946, trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, tờ báo của Ðảng bộ tỉnh chúng ta ra đời, có tên là báo Chiến, thời đó bao gồm 2 tỉnh, Cà Mau và Bạc Liêu ngày nay. Báo Chiến ra mỗi tuần 1 kỳ, 4 trang, khổ giấy manh, in bằng giấy sáp.

Tây Nam Bộ lịch sử qua ống kính (1954-1975)

Được phát hành vào tháng 4 vừa qua, tập sách ảnh đen trắng “Tây Nam Bộ kháng chiến - Lịch sử qua ống kính (1945-1975)” truyền đi thông điệp mạnh mẽ về khát vọng hoà bình, độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Ðây là công trình kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025), 100 năm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/6/1925-21/6/2025).

Kỷ vật trở về

Ông Ðinh Anh Toàn, Phó Giám đốc Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Cà Mau, cho biết: Tỉnh nhận 465 bộ hồ sơ cán bộ "đi B" từ Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, 2 lần tổ chức trao lại gần 40 hồ sơ, hiện vật. Những buổi lễ trang trọng ấy không chỉ là sự kiện trao trả kỷ vật mà còn là những cuộc hội ngộ của ký ức, tiếp thêm niềm tin và hy vọng cho hành trình đi tìm dấu vết người thân, kéo dài hơn nửa thế kỷ.